Đều là khái niệm xuất khẩu nhưng xuất khẩu và xuất khẩu tư bản khác nhau ở chỗ xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện buôn bán và tạo ra giá trị thặng dư, còn xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị của hàng hóa ra nước ngoài, có thể hiểu là việc đầu tư ra nước ngoài nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản đó. Vậy quy định về xuất khẩu tư bản, vai trò, ý nghĩa và các hình thức xuất khẩu được quy định như thế nào.
Luật sư tư vấn pháp luật miễn phí qua điện thoại 24/7: 1900.6568
1. Xuất khẩu tư bản là gì?
– Khái niệm Xuất khẩu tư bản:
Khái niệm xuất khẩu tư bản xuất hiện vào giữa thế kỷ 19, đi kèm với việc đầu tư quy mô lớn và cướp bóc thuộc địa của các nước phát triển. Lần đầu tiên Marx đưa ra khái niệm xuất khẩu tư bản, ông chỉ ra rằng xuất khẩu tư bản là việc các nước tư bản đầu tư hoặc cho các nước khác vay nhằm thu được lợi nhuận cao bằng cách sử dụng tư bản thừa. Học thuyết Tư bản của Marx cho thấy bản chất của xuất khẩu tư bản ở các nước phát triển và tác động của nó đối với nền kinh tế thế giới. Marx cho rằng xuất khẩu tư bản là kết quả của việc tư bản theo đuổi giá trị thặng dư và sản phẩm xã hội hóa tư bản chủ nghĩa.
Bản chất của việc tư bản theo đuổi giá trị thặng dư khiến cho tư bản cần phải mở rộng ra khỏi biên giới quốc gia, do đó dẫn đến xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản của xã hội tư bản tồn tại dưới hình thức xuất khẩu tư bản hàng hóa và xuất khẩu tư bản cho vay. “Tư bản thừa” là cơ sở vật chất cần thiết để xuất khẩu tư bản. Do tồn tại dư thừa vốn, tỷ suất sinh lợi nội địa giảm, nhằm đạt được doanh thu cao hơn; vốn cần xuất khẩu ra nước ngoài. Ngoài việc xem xét xuất khẩu tư bản trong lĩnh vực sản xuất, Mác còn phân tích tác động của xuất khẩu tư bản đối với nền kinh tế dưới góc độ quan hệ sản xuất. Ông chỉ ra rằng một mặt, xuất khẩu tư bản đã làm thay đổi quan hệ sản xuất tự cung tự cấp trước đây, làm cho các quốc gia, dân tộc phụ thuộc và liên kết với nhau.
Mặt khác, nó cũng đã giành được quyền kiểm soát đối với các thuộc địa và nửa thuộc địa, chấm dứt quá trình tự phát triển của các nước này. Cuối cùng, Marx cũng thảo luận về mối quan hệ giữa khủng hoảng kinh tế và xuất khẩu tư bản. xuất khẩu tư bản tạm thời khắc phục được mâu thuẫn cố hữu của chủ nghĩa tư bản, đồng thời đẩy mâu thuẫn ra phạm vi rộng hơn, đồng thời làm tăng khả năng nổ ra khủng hoảng trên phạm vi quốc tế. Trên cơ sở lý luận của Mác, Lê-nin đã đào sâu thêm lý luận về xuất khẩu tư bản.
Ông chia xuất khẩu tư bản thành hai hình thức, một là xuất khẩu tư bản sản xuất, hai là xuất khẩu tư bản cho vay. Lê-nin cho rằng tư bản dư thừa của các nước phát triển chủ yếu chảy sang các nước lạc hậu về kinh tế. Xuất khẩu tư bản phải thoả mãn hai điều kiện, một là tư bản dư thừa ở một số ít nước tư bản phát triển, hai là các nước lạc hậu có khả năng phát triển tư bản chủ nghĩa. Cuối cùng, Lenin chỉ ra rằng kết quả tất yếu của quá trình luân chuyển vốn từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển là sự trì trệ kinh tế ở các nước xuất khẩu tư bản và sự suy giảm tư bản của các nước nhập khẩu tư bản.
2. Vai trò, ý nghĩa và các hình thức xuất khẩu:
Các nghiên cứu sau đó phát hiện ra rằng xuất khẩu tư bản không chỉ được tiến hành bởi các nước phát triển. Do sự bất bình đẳng về tài nguyên của các nước trên thế giới nên hầu hết các nước trên thế giới vừa xuất khẩu tư bản vừa thực hiện nhập khẩu tư bản. Có “dòng chảy dọc” của vốn từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, “dòng chảy ngang” giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, và “dòng chảy ngược” từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển (Xiao Weiguo, Cai Zhiqiang, 1999).
Từ trước đến nay, chúng ta có thể định nghĩa xuất khẩu tư bản là hoạt động đầu tư hoặc cho vay của chính phủ hoặc các tổ chức tư nhân để thu được lợi nhuận hoặc lãi suất cao, nước xuất khẩu vốn có thể là nước phát triển hoặc đang phát triển. Xuất khẩu tư bản có hai hình thức: xuất khẩu tư bản sản xuất và xuất khẩu tư bản cho vay. xuất khẩu tư bản sản xuất là việc thành lập các công ty nước ngoài để tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh dưới hình thức đầu tư trực tiếp; trong khi cho vay xuất khẩu vốn đề cập đến các khoản đầu tư gián tiếp như các khoản vay do chính phủ nước ngoài hoặc các cá nhân tư nhân cung cấp, mua trái phiếu và cổ phiếu nước ngoài (đầu tư chứng khoán).
– Ảnh hưởng của xuất khẩu tư bản đến tăng trưởng kinh tế:
Ảnh hưởng của xuất khẩu vốn đối với tăng trưởng kinh tế của một quốc gia có thể bị ảnh hưởng thông qua ngoại thương (Buckley & Casson, 1981; Markusen, 1995), việc làm ((Hawkins, 1972; Hamill, 1992), sự lan tỏa công nghệ ngược lại (Kogut & Change, 1991), và tăng giá vốn (Macdougall, 1960). Từ góc độ ngoại thương và việc làm, xuất khẩu tư bản vừa có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa có thể kìm hãm nó. Do đó, tác động của xuất khẩu tư bản đối với tăng trưởng kinh tế của một quốc gia là không rõ ràng. Các nhà nghiên cứu trong nước của Trung Quốc cũng chỉ ra rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh và Nhật Bản có một vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Li Xing, Li Xiaojuan, 2006).
– Phương thức xuất khẩu tư bản của Trung Quốc: Định nghĩa về xuất khẩu tư bản hiện nay khác với định nghĩa của Marx và Lenin đã phân tích. Định nghĩa của Marx và Lenin là dựa trên thực chất của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa. Người ta coi xuất khẩu tư bản là phương tiện mà chủ nghĩa đế quốc bóc lột và áp bức các nước lạc hậu. Với sự phát triển của kinh tế quốc tế, sự liên kết giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ hơn, việc quốc tế hoá sản xuất và tiêu dùng cũng như toàn cầu hoá tư bản trở nên bình thường.
Vì vậy, xuất khẩu tư bản không còn là sáng chế của các nước phát triển hay các nước tư bản nữa. Xuất khẩu tư bản do các nước đang phát triển tiến hành là có thể thực hiện được. Nó đã trở thành một cách để bình đẳng và cùng có lợi, chia sẻ sự thịnh vượng chung và học hỏi lẫn nhau. Nhìn chung, có hai hình thức xuất khẩu vốn nước ngoài chính ở Trung Quốc: quỹ tài sản có chủ quyền do nhà nước lãnh đạo và do thị trường dẫn dắt
– Quỹ thịnh vượng của nhà nước:
Quỹ tài sản nhà nước là một loại quản lý tài sản đặc biệt khác với quỹ tài sản tư nhân. quỹ; nó còn được gọi là quỹ đầu tư có chủ quyền. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) định nghĩa đây là quỹ đầu tư đặc biệt do chính phủ tạo ra và sở hữu, nắm giữ tài sản nước ngoài cho các mục đích dài hạn. Quỹ tài sản có chủ quyền đầu tư trên toàn thế giới, bao gồm bất động sản, tài sản tài chính. (cổ phiếu và trái phiếu), kim loại quý và quỹ đầu cơ.
Nguồn tiền đến từ thặng dư thương mại, xuất khẩu nhưng thu nhập từ các mặt hàng như dầu mỏ và khoáng sản, và dự trữ ngoại hối do ngân hàng trung ương sở hữu. Kể từ những năm 1950, các quỹ tài sản có chủ quyền toàn cầu đã phát triển nhanh chóng. Tính đến tháng 12 năm 2017, gần 50 quốc gia và khu vực đã thành lập quỹ tài sản có chủ quyền. Tài sản của quỹ tài sản có chủ quyền toàn cầu đã vượt quá 7,4 nghìn tỷ đô la Mỹ. Hầu hết các quỹ tài sản có chủ quyền nằm ở châu Á và Trung Đông.
Ví dụ, ở các nước sản xuất dầu mỏ Trung Đông, các nước Đông Nam Á và Trung Quốc, dự trữ ngoại hối vượt xa quy mô cần thiết để duy trì các khoản thanh toán bên ngoài và ổn định tiền tệ. Nếu dự trữ ngoại hối luôn được đầu tư vào các tài sản lưu động cao truyền thống và lợi nhuận thấp của chúng gây ra sự lãng phí lớn về nguồn lực, thì đó là một lựa chọn mới để xây dựng các quỹ tài sản có chủ quyền và tối ưu hóa danh mục đầu tư thông qua quản lý của chuyên gia để thu được lợi nhuận cao.
Có bốn hình thức chính của quỹ tài sản có chủ quyền toàn cầu: loại thứ nhất là quỹ tài sản có chủ quyền ổn định, được thành lập để làm ổn định thu nhập quốc dân và giảm tác động của những biến động bất ngờ trong thu nhập quốc dân lên nền kinh tế và ngân sách. Hầu hết các quốc gia thành lập quỹ này đều là các quốc gia phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu để kiếm tiền nước ngoài.