Thái Lan
I. Khái quát chung:
– Tên nước: Vương quốc Thái Lan (Thailand).
– Thủ đô: Băng-cốc (Bangkok) (từ năm 1782).
– Diện tích: 513.115 km2 (lớn thứ 49 thế giới), gồm 76 tỉnh.
– Vị trí địa lý: Nằm ở Đông Nam Á. Phía bắc giáp Lào và Myanma. Phía Đông giáp Cam-pu-chia và Vịnh Thái Lan; phía Nam giáp Malaysia; phía Tây giáp biển Andaman và Mianma.
– Dân số: 63,04 triệu người (2007) trong đó người Thái chiếm 75%, người Hoa 14%, các dân tộc khác 11%.
– Tôn giáo: Đạo Phật được coi là quốc đạo, chiếm khoảng 95% dân số, ngoài ra có Đạo Hồi (4%), Thiên chúa giáo và các đạo khác (1%).
– Ngôn ngữ: Ngôn ngữ chính là tiếng Thái. Tiếng Anh được dùng phổ biến.
– Ngày quốc khánh: 5/12 (là ngày sinh nhật Vua Bhumibol Adulyadej)
– Tiền tệ: Đồng Baht (THB).
II. Thể chế chính trị:
– Thể chế nhà nước: quân chủ lập hiến.
– Cơ cấu các cơ quan quyền lực:
- Nguyên thủ quốc gia là Nhà Vua: Được coi là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Về danh nghĩa Nhà Vua là người đứng đầu nhà nước, Tổng Tư lệnh quân đội và là người bảo trợ Phật giáo.
- Quốc hội: Theo Hiến pháp ngày 24/8/2007, Quốc hội Thái Lan là Quốc hội lưỡng viện. Hạ viện (cơ quan lập pháp) gồm 480 ghế và Thượng viện gồm 150 ghế.
- Chính phủ: bao gồm 36 thành viên gồm 3 Phó Thủ tướng, 21 Bộ trưởng và 11 Thứ trưởng. Ngoài ra còn có một số Ủy ban của Chính phủ được lập ra để phối hợp thực hiện các chính sách chung.
III. Kinh tế:
– Thái Lan hiện là một nước công nghiệp mới (trước vốn là nước nông nghiệp truyền thống). Bắt đầu từ năm 1960 Thái Lan thực hiện Kế hoạch phát triển Kinh tế – Xã hội lần thứ nhất và đến nay là Kế hoạch 9 (2002- 2006). Những năm 1970 Thái thực hiện chính sách “hướng xuất khẩu”, ASEAN, Mỹ, Nhật, EC là thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan. Ngành công nghiệp và dịch vụ đã dần dần đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và vai trò của nông nghiệp giảm dần. Ngành du lịch cũng đóng vai trò tích cực.
– Từ 1985 – 1996 kinh tế Thái Lan đạt tốc độ tăng trưởng cao trung bình gần 9% một năm. Nhưng đến năm 1996 tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn 5,9% và sau đó là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 7/1997 làm cho kinh tế Thái Lan rơi vào tình trạng khó khăn trầm trọng, Chính phủ buộc phải thả nổi đồng Bạt: Tỷ giá đồng bạt tháng 1/1998 là 56 Bạt = 1USD (trước là 25,3); mức tăng GDP năm 98 là -10,5%; nợ nước ngoài khoảng 87 tỷ USD; các ngành sản xuất mũi nhọn như công nghiệp ô tô, dệt, điện tử suy giảm nghiêm trọng; thất nghiệp gia tăng, tính đến tháng 3/1998 đã có tới 2,8 triệu người thất nghiệp, chiếm 8,8% lực lượng lao động.
– Kể từ năm 1998, kinh tế Thái Lan bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. tăng trưởng đạt 4,2-4,4% vào năm 2000, phần lớn dựa vào xuất khẩu (tăng 20% năm 2000). Năm 2001, mức tăng trưởng bị giảm xuống còn 2,2% do ảnh hưởng của sự sụt giảm của kinh tế toàn cầu. Nhưng sau đó, kinh tế Thái Lan tăng trưởng mạnh dưới thời Thủ tướng Thaksin Shinawatra với một số dự án lớn. Từ 2002 – 2004, tăng trưởng đạt 5-7% một năm.
– Từ năm 2007, những bất ổn chính trị đã gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của Thái Lan tuy nhiên các yếu tố cơ bản của nền kinh tế vấn vững. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Thái Lan năm 2007 đạt 4,8%. Do bất ổn chính trị trong nước và ảnh hưởng tiêu cực bởi khủng hoảng tài chính, tăng trưởng kinh tế của Thái Lan năm 2008 chỉ đạt 3,6%. Những tháng đầu năm 2009, xuất khẩu giảm mạnh, thất nghiệp gia tăng, tăng trưởng kinh tế Thái Lan quý 1 giảm 7,1%. Thời gian gần đây, kinh tế Thái Lan đã dần phục hồi. GDP quý 2 là -4,9%, quý 3 là -2,8%. Dự đoán kinh tế Thái Lan sẽ tiếp tục đà cải thiện và đạt mức tăng trưởng GDP năm 2009 vào khoảng âm 3% và tăng trưởng 2,1% trong năm 2010. Tuy nhiên, đà tăng trưởng kinh tế vẫn còn phải phụ thuộc vào một số yếu tố trong đó có sự ổn định chính trị trong nước.
IV. Quan hệ với Việt Nam:
– Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao: 06/8/1976.
– Từ năm 1991 đến nay, quan hệ hai nước dần được cải thiện và phát triển mạnh, nhất là sau khi Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN.
– Từ ngày 20-21/2/2004, Chính phủ hai nước đã tiến hành cuộc họp Nội các chung lần thứ nhất tại thành phố Đà Nẵng (Việt Nam) và tỉnh Na-khon Phan-nom (Thái Lan). Đoàn đại biểu Chính phủ ta do Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải dẫn đầu và Đoàn đại biểu Chính phủ Vương quốc Thái Lan do Thủ tướng Thạc-xỉn Xin-na-vắt dẫn đầu.
– Sau đảo chính quân sự tại Thái Lan ngày 19/9/2006, mức độ hoạt động trong quan hệ chính trị đối ngoại giữa hai nước có phần chững lại song quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực khác nhất là kinh tế thương mại và đầu tư vẫn phát triển tốt. Sau khi quân đội Thái Lan trao lại quyền hành cho Chính phủ dân sự, ta tiếp tục duy trì và củng cố quan hệ với Thái Lan. Hai nước chủ trương nối lại một số cơ chế hợp tác, trong đó có cuộc họp Nhóm Công tác chung Chính trị – An ninh Việt Nam – Thái Lan lần thứ 3 đã được tổ chức tại Thái Lan từ 03-04/7/2008.
– Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, kim ngạch thương mại hai nước đến tháng 8/2009 đạt gần 3,4 tỷ USD, giảm 22,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Việt Nam xuất sang Thái Lan 808 triệu USD và nhập gần 2,6 tỷ USD. Về đầu tư, tính đến tháng 8/2009, Thái Lan có 208 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký là 5,7 tỷ USD, đứng thứ 9 trong tổng số 88 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam.
– Hai nước hợp tác tốt trong ASEAN, các diễn đàn khu vực và quốc tế. Thái Lan mong muốn hai nước tăng cường hợp tác phát triển mạng giao thông kết nối hai nước qua Lào và Campuchia. Thái Lan tiếp tục có chính sách tích cực đối với cộng đồng người Việt. Hai bên tiếp tục duy trì cơ chế hợp tác xuất khẩu gạo, thỏa thuận thúc đẩy hợp tác khai thác tuyến đường hành lang Đông-Tây, cũng như hợp tác trong các khuôn khổ khu vực ASEAN, ACMECS, GMS…
(Nguồn tin: BNG).