Mặc dù triều đình nhà Nguyễn ký các bản hiệp ước đầu hàng vô điều kiện đối với thực dân Pháp công nhận sự thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta. Tuy nhiên các phong trào đấu tranh của nhân dân vẫn được diễn ra dưới sự lãnh đạo của các vua quan phong kiến đấu tranh với thực dân Pháp xâm lược bảo vệ đất nước. Khuynh hướng đấu tranh phong kiến thất bại trước những ảnh hưởng của các luồng văn hoá tư sản tiến bộ trên thế giới du nhập vào nước ta một số nhà nho yêu nước đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các luồng văn hoá này do đó đã hình thành nên con đường đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
– Khởi nghĩa Trương Định
– Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực
– Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Huân
– Khởi nghĩa của cha con Phan Thanh Giảng
– Người lãnh đạo là vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết
– Địa bàn hoạt động chủ yếu là Bắc Kỳ và Trung Kỳ
– Tôn Thất Thuyết chủ chiến đánh vào đồn Mang Cá, sau khi bị thất thủ ông đưa vua Hàm Nghi chạy vào Quảng Trị ra chiếu Cần Vương (3-7-1885) kêu gọi văn thân sĩ phu yêu nước đứng lên đấu tranh giành độc lập. Hưởng ứng lời kêu gọi của phong trào Cần Vương rất nhiều các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra để hưởng ứng phong trào này tiêu biểu có các cuộc khởi nghĩa:
– Khởi nghĩa Hùng Lĩnh diễn ra ở Thanh Hoá
– Khởi nghĩa Ba Đình (1881-1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo diễn ra ở Thanh Hoá
– Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo diễn ra ở các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình.
– Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo, diễn ra ở địa bàn Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh.
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra. Do đó các nhà yêu nước tiến bộ chủ trương một khuynh hướng đấu tranh mới đó là khuynh hướng dân chủ tư sản.
2. Phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
Cuối thế kỷ XIX đàu thế kỷ XX các nhà yêu nước của ta được tiếp nhận với luồng văn hoá dân chủ tư sản. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng tư tưởng của Khang Hữu Vy và Lương Khả Siêu và cách mạng Minh Trị. Khuynh hướng yêu nước dân chủ tư sản được chia làm hai giai đoạn:
+Khuynh hướng bạo động
– Tiêu biểu cho khuynh hướng này là Phan Bội Châu, ông chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp, ông cho rằng nước Nhật là đồng văn, đồng chủng với nước ta.
– Ông thành lập hội Duy Tân (1904) nhằm tập hợp các thanh niên trí thức đi du học diễn ra với phong trào Đông Du (1906-1908).
– Sau khi phong trào Đông Du thất bại chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng Tân Hợi của Trung quốc ông đã thành lập Việt Nam Quang Phục Hội (1912)
+Khuynh hướng bất bạo động: do Phan Tru Chinh đề xuất
Phan Chu Trinh (1872-1926) hiệu Tây Hồ quê ở Quảng Nam
– Ông chủ trương “tư lại khai hoá” ông chủ trương khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh ông đặt chủ trương khôi phục đất nước lên hàng đầu
– Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền thành lập trường Đông Kinh thu hút thanh niên đến học
– Phong trào Duy Tân (1906-1908) diễn ra ở Trung Kỳ do Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp vận động phát triển nông nghiệp, thương nghiệp thay đổi lối sống
– Phong trào quốc gia cải lương (1919-1924) của tư sản và địa chủ lớp trên diễn ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn do tư sản và địa chủ lãnh đạo đòi quyền tự do kinh tế và chống độc quyền kinh doanh.. Phong trào chống độc quyền thương cảng Sài Gòn kêu gọi nhân dân tẩy chay hàng hóa của thực dân Pháp. Phong trào chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ.
– Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo quần chúng, tuy nhiên khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền lợi họ đầu hàng thực dân Pháp.
– Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925-1926) của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị Việt Nam nghĩa đoàn, Phục Việt, Hưng Nam….thành lập nhiều tờ báo như Cường học thư xã, Quan hải tùng thư, Người nhà quê, Chuông rạn… với nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như:
+ Phong trào đòi thả Phan Bội Châu (1925)
+ Phong trào đòi thả Nguyễn An Ninh (1926)
+ Phong trào để tang Phan Châu Trinh (1926)
+ Ngoài đấu tranh chính trị tiểu tư sản Việt Nam còn vận động văn hoá tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi tư tưởng tự do dân chủ
– Phong trào cách mạng quốc gia tư sản (1927-1930)
+ Gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng (25-12-1927) lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính với nhà xuất bản Nam Đồng thư xã chuyên in ấn các loại báo chí, tạp chí cách mạng.
+ Tổ chức lỏng lẻo, nhiều thành phần, không có sự bảo mật, hoạt động không sâu rộng chủ yếu ở Bắc Kỳ, chưa có đường lối chính trị cụ thể rõ ràng. Về tổ chức, Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ trung ương đến cơ sở nhưng cũng chưa bào giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất.
* Đánh giá:
Tóm lại: Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản cuối cùng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ cách mạng Việt Nam đứng trước sự khủng hoảng đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo yêu cầu cần phải có đường lối cách mạng đúng đắn và phương pháp cách mạng đúng đắn.
* Nguyên nhân thất bại:
– Khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản không còn phù hợp với thời đại mới
– Các phong trào này diễn ra lẻ tẻ không thống nhất nên dễ dàng bị thực dân Pháp đàn áp.
– Các phong trào này quá phụ thuộc vào người lãnh đạo. Sau khi người lãnh đạo bị bắt hoặc bị hy sinh thì các phong trào này đều bị thất bại.
– Chỉ hô hào cổ động không quan tâm đến vận động quần chúng, không chủ động xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.