Nhân vật trữ tình là gì?
Nhân vật trữ tình (tiếng Nga: liricheskyi geroi) là hình tượng nhà thơ trong thơ trữ tình, phương thức bộc lộ ý thức tác giả. Nhân vật trữ tình là con người “đồng dạng” của tác giả – nhà thơ hiện ra từ văn bản của kết cấu trữ tình (một chùm thơ, toàn bộ trường ca hay toàn bộ sáng tác thơ) như một con người có đường nét hay một vai sống động có số phận cá nhân xác định hay có thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi có cả nét vẽ chân dung (mặc dù không bao giờ đạt tới đặc điểm của một nhân vật như trong tác phẩm tự sự hay kịch).
Hiện có những tranh cãi về khái niệm nhân vật trữ tình. Thông thường, người ta xem nhân vật trữ tình là hình tượng khái quát như một tính cách văn học được xây dựng trên cơ sở lấy các sự thật của tiểu sử tác giả làm nguyên mẫu. Đó là một “cái tôi” đã được sáng tạo ra. Ý kiến khác nhấn mạnh rằng cùng với hình tượng ấy, nhà thơ cũng thổ lộ tình cảm thật chân thành của mình trong những tình huống trữ tình, và người đọc không lầm khi tin những tình cảm ấy là thật. Tuy vậy, không được đồng nhất giản đơn nhân vật trữ tĩnh với tác giả, bởi trong thơ trữ tình nhà thơ xuất hiện như “người đại diện cho xã hội, thời đại và nhân loại” (Bê-lin-xki), nhà thơ đã tự nâng mình lên trên đời thường cá biệt.
Bạn đang xem bài: Nhân vật trữ tình là gì? So sánh nhân vật trữ tình và nhân vật kịch
So sánh nhân vật trữ tình và nhân vật kịch
Khái niệm nhân vật
– Theo từ điển văn học: nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong TPVH, là tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng nghệ thuật của TPVH.
→ Đây là định nghĩa tương đối toàn diện về nhân vật. Nhìn nhận nhân vật từ khía cạnh vai trò, chức năng của nhân vật với tác phẩm và từ mối quan hệ của nó tới các yếu tố hình thức tác phẩm.
– Theo tác giả Lại Nguyên Ân trong “150 thuật ngữ văn học”: Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trọng tâm để xem xét sáng tác của nhà văn, một khuynh hướng trường phái hay dòng phong cách. Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người.
→ Đây là khái niệm mà nhân vật được xem xét trong mối tương quan với cá tính sáng tạo, phong cách nhà văn và trường phái văn học. Nhân vật văn học là một trong những yếu tố tạo nên phong cách nhà văn và màu sắc riêng của một trường phái văn học.
So sánh nhân vật trữ tình và nhân vật kịch
Giống nhau
– Nhân vật trữ tình và nhân vật kịch đều là nhân vật do nghệ sĩ sáng tạo ra và đều được thể hiện bằng nghệ thuật ngôn từ.
– Nhìn từ góc độ vai trò, chức năng của nhân vật với tác phẩm và mối quan hệ của nó đối với các yếu tố hình thức của tác phẩm thì nhân vật trữ tình và nhân vật kịch đều là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm, là tiêu điểm để bộc lộ chủ đề tư tưởng và nó được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật đều là nơi tập trung giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm.
Khác nhau
Dựa vào đặc điểm của mỗi loại nhân vật ta thấy:
* Điểm thứ nhất:
– Cảm xúc của nhân vật trữ tình là cảm xúc của một cá nhân và trước hết là hoàn cảnh cá nhân nhưng nó lại mang tính khái quát (đại diện cho tâm trạng của nhiều người). Ở đặc điểm này chúng ta thấy, nhân vật trữ tình thể hiện cảm xúc là cảm xúc của cá nhân trước một hoàn cảnh cụ thể của cá nhân nào đó. Nhưng quang trọng hơn là cảm xúc ấy nó khái quát được cảm xúc của đa số.
Ví dụ: “Muốn làm thằng cuội” của Tản Đà trước tiên là cảm xúc của nhân vật trữ tình (buồn, cô đơn, sầu, chán, muốn trốn tránh thực tại) trước hoàn cảnh riêng của mình (nỗi buồn của cá nhân trước thế sự cuộc đời). Trước hoàn cảnh cá nhân và cảm xúc của cá nhân nhưng ở đây có sự đồng cảm của rất nhiều người (cả một thế hệ thành niên lúc đó) nên nó được coi như cảm xúc cộng đồng, cảm xúc khái quát, cảm xúc đại diện.
– Ngược lại trong kịch, nhân vật thường rất nổi bật về tính cách và thường chia thành nhiều tuyến rõ rệt. Một nhân vật kịch thường ít đặc tính thẩm mĩ nhưng là những đặc tính nổi bật. Một vở kịch muốn hay, muốn thể hiện rõ tính xung đột thì nhân vật kịch phải có tính cách nổi bật (hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc anh hùng hoặc đê hèn…) và trong một vở kịch thường chia nhân vật ra thành các tuyến. Mâu thuẫn, xung đột kịch cũng chính là mâu thuẫn, xung đột của các tuyến nhân vật này.
* Điểm thứ hai:
– Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là loại nhân vật mang nhiều cảm xúc. Vào thời điểm xuất hiện trong tác phẩm thì nó mang tâm sự giãi bày. Do thể loại trữ tình là thể loại bộc lộ cảm xúc, mỗi một tác phẩm đều thể hiện một hoặc nhiều tâm sự giãi bày nào đó. Do đó nhân vật của thể loại này chính là chủ thể trũ tình thể hiện cảm xúc đó.
Ví dụ: bài “Sang thu” – Hữu Thỉnh, nhân vật trữ tình thể hiện cảm xúc bất ngờ, bâng khuâng khi mùa thu bắt đầu đến, khi cảm nhận về thời gian của cuộc đời. Khi xuất hiện trong bài thơ, nhân vật trũ tình thể hiện tâm trạng ngạc nhiên bất ngờ, chiêm nghiệm trước giao mùa và trước sự vận động của thời gian so với cái hữu hạn của cuộc đời.
– Nhân vật kịch lại là nhân vật hành động, qua hành động nhân vật bộc lộ tính cách của mình. Do đặc điểm của thể loại kịch là chuỗi các xung đột, xung đột được phát triển qua các giai đoạn cho nên nhân vật kịch phải hành động, hành động không ngừng để diễn tả những xung đột ấy. Tính cách của nhân vật được hiểu dần qua trang phục, ngôn ngữ, cử chỉ và đặc biệt là chuỗi các hành động theo diễn biến của vở kịch. Nhân vật kịch không thể chỉ đứng để kể về tính cách và diễn biến kịch mà tất cả đều thông qua hành động.
Ví dụ: trong “Trưởng giả học làm sang”, nhân vật trưởng giả qua chuỗi các hành động của mình để dần lộ ra là một con người ngu ngốc, dốt nát, học đòi, đáng chê trách.
* Điểm thứ ba:
– Nhân vật trữ tình không hành động, mọi tác động của môi trường sống chỉ dẫn đến cảm xúc buồn hoặc vui mà không dẫn đến hành động cụ thể nào.
Ví dụ: bài thơ “Thương vợ” – Trần Tế Xương, nhân vật trữ tình chỉ thể hiện cảm xúc buồn thương, biết ơn người vợ tần tảo, nắng sương, bèo bọt vất vả của mình chứ tuyệt đối không có hành động nào. Diễn biến của bài thơ là diễn biến của mạch cảm xúc, hình ảnh người vợ tần tảo ngoài đời tác động đến nhân vật trữ tình để rồi bật lên cảm xúc buồn thương, biết ơn, trân trọng… và đó chưa phải là những hành động cụ thể của nhân vật.
– Nhưng trong kịch, nhân vật thường xuất hiện trong dòng xoáy của cuộc sống vào lúc cuộc sống sôi động nhất. Nhân vật xuất hiện để giải quyết xung đột. Bởi những mâu thuẫn, xung đột trong kịch chính là những lát cắt của hiện thực đời sống, các tác giả lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống để xây dựng nên cuộc sống trong kịch. Do đặc điểm thể loại mà kịch chỉ tập trung vào những xung đột gay gắt, những mâu thuẫn đỉnh điểm – đó là cao trào, là dòng xoáy của cuộc đời, từ đó nhân vật xuất hiện. Nhân vật kịch với những chuối hành động đã thể hiện được xung đột đó, mâu thuẫn đó, dòng xoáy cuộc đời đó. Hoàn toàn không có loại kịch nào mà không có mâu thuẫn, xung đột. Do vậy, lúc mâu thuẫn xuất hiện, lúc cuộc đời xung đột thì nhân vật kịch mới xuất hiện.
Ví dụ: “Trưởng giả học làm sang” – nhân vật ông Giuốc-đanh chỉ xuất hiện khi xung đột, mâu thuẫn giữa giàu và nghèo, vinh quang với thấp hèn, tốt và xấu, trí tuệ và sự ngu dốt… xuất hiện. Bởi vì Molie sáng tạo ra hệ thống nhân vật của mình để thể hiện cuộc sống vốn bát nháo, lẫn lộn và đầy mâu thuẫn đáng chê trách của nó.
* Điểm thứ tư:
– Nhân vật trữ tình chỉ xuất hiện khi sự việc đã xảy ra, lúc mà cuộc sống bao quanh nó không còn sôi động với tất cả sự gay cấn của nó. Đặc điểm của thể loại trữ tình là biểu cảm, thể hiện cảm xúc chủ quan của một chủ thể với một hoặc nhiều sự vật, sự kiện trong thế giới khách thể. Nghĩa là bộc lộ cảm xúc về một cái gì đó đã xảy ra rồi, đã diễn ra và không còn là lúc cao trào, sôi động nhất nữa.
Ví dụ: Hồ Chí Minh đã viết khi người đang bị giam cầm bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch:
“Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng
Hoa tàn hoa nở cũng vô tình
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình”
Ở đây, người đọc dễ dàng nhân ra một sự kiện (hoa hồng nở và rụng) và sự biểu cảm của người tù về sự kiện đó: yêu quý hoa, thương tiếc giá trị của bông hoa trong sự vô tình của không gian xung quanh, và khẳng định giá trị của tâm hồn. Như vậy, dựa vào sự kiện đã xảy ra để bộc lộ cảm xúc của nhân vật trữ tình.
– Trong kịch thì lại khác, nhân vật kịch có sự biến đổi dễ dàng, nhanh chóng cùng với sự giải quyết xung đột. Đặc trưng của kịch là nhân kịch thể hiện xung đột và giải quyết xung đột theo 5 bước phát triển của nó. Nghĩa là nó đứng trong cuộc, liên tục phải thay đổi mình để phù hợp với xung đột, mâu thuẫn kịch và đi giải quyết xung đột, mâu thuẫn ấy. Nếu chỉ đứng ngoài và đợi khi sự việc xảy ra không còn cao trào nữa như đối với thơ thì không ai xem kịch nữa. Nhân vật kịch được trộn đều hòa tan và là thành phần để tạo nên xung đột, giải quyết xung đột… nên không thể đứng ngoài sự việc, không thể nhất quán từ đầu đến cuối về trang phục, ngôn ngữ và hành động.
Ví dụ: đoạn trích “Ông giuốc-đanh mặc lễ phục”, nhân vật phó may và nhân vật thợ phụ đã có sự thay đổi rất lớn để góp phần tạo tiếng cười và tạo xung đột cho vở hài kịch. Phó may và thợ phụ từ kẻ may quần áo, đến kẻ lừa đảo, nịnh bọ, thủ đoạn… sự thay đổi để góp phần làm rõ hơn tính cách “trưởng giả” học đòi của giuốc-đanh.
* Điểm thứ năm:
– Nhân vật trữ tình ít nhiều gắn bó với cuộc đời thực của tác giả nhưng không có nghĩa là đồng nhất với tác giả. Qua nhân vật trữ tình, chúng ta có thể thấy bóng dáng tác giả. Đó là một Tản Đà buồn chán cuộc sống thời cuộc, muốn trốn tránh thực tại với suy nghĩa “ngông” của mình trong “Muốn làm thằng cuội”. Đó là tâm trạng hồ hởi vui sướng của anh thanh nên Tố Hữu khi được giác ngộ cách mạng, khi được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, là tác phẩm văn chương với đặc thù hư cấu nên chúng ta không nên đồng nhất giữa nhân vật trữ tình với tác giả.
– Ngược lại, nhân vật trong kịch chỉ tồn tại trong bối cảnh xã hội của vở kịch ấy mà qua xã hội trong vở kịch để phản ánh cuộc sống xã hội thật ngoài đời. Như vật, nhân vật kịch chỉ tồn tại trong kịch mà thôi. Trong kịch, nhân vật có cấu trúc nhiều nhân vật, nhiều loại, nhiều tính cách.
– Trong thơ chỉ có một nhân vật trữ tình xuyên suốt tác phẩm nhưng trong kịch vốn thể hiện mâu thuẫn, xung đột thì không thể có một nhân vật được mà là nhiều nhân vật, nhiều tầng bậc khác nhau.
Ví dụ: chỉ một đoạn trích vở kịch “Trưởng giả học làm sang”, “ông giuốc-đanh mặc lễ phục” chúng ta đã thấy có 3 nhân vật chính ông giuốc-đanh, phó may, thợ phụ.
→ Tóm lại, so sánh giữa đặc điểm nhân vật trữ tình và nhân vật kịch, chúng ta thấy có những điểm chung, thống nhất vì đều là nhân vật trong tác phẩm văn chương. Những chúng cũng có những điểm khác biệt căn bản do đặc trưng thể loại quy định. Hiểu được sự khác nhau bản chất như vậy góp phần giúp chúng ta hiểu được đặc trưng thể loại và dễ dàng hơn trong việc chiếm lĩnh tác phẩm văn học.
Phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh
Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn, cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng của con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mùa thu của dân tộc một cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài “Sang thu” được ông sáng tác cuối năm 1977
Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu.
Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu với một hương vị khác: Hương ổi.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
“Bỗng nhận ra” là một trạng thái chưa được chuẩn bị trước, như là vô tình, sửng sốt để cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang theo hương ổi. “Phả” là một động từ mang ý tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian: “hương ổi”, một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người.
Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Từ láy tượng hình “chùng chình” gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. “Chùng chình” là sự ngắt quãng nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chính là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. “Hình như” là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thảng thốt. Không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người Việt Nam, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào một cách hết sức tự nhiên.
Rồi mùa thu được quan sát ở những không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội và
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể khẳng định: Thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể. Dòng sông không còn cuồn cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà trôi một cách dềnh dàng, thanh thản. Mọi chuyển động dường như có phần chậm lại, chỉ riêng loài chim là bắt đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải chuẩn bị những chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm mới có thể nhận ra sự bắt đầu vội vã trong những cánh chim bay bởi mùa thu chỉ vừa mới chớm, rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng. Điểm nhìn của nhà thơ được nâng dần lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao rộng:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là một phát hiện rất mới và độc đáo của ông. Mùa thu mới bắt đầu vì thế mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây như một dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa hạ, nửa đang nghiêng về mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động và giàu sức biểu cảm.
Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa không còn được nhà thơ diễn tả bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần. Những ngày giao mùa này đã vơi đi những cơn mưa rào ào ạt. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc này, những tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa rào không còn nhiều nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhiều suy nghĩ, liên tưởng thú vị.
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Cụm từ “hàng cây đứng tuổi” gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời người như một loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đứng tuổi của đời người. Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Vẻ chín chắn, điềm tĩnh của hàng cây trước sấm sét, bão giông vào lúc sang thu cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con người khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra một mùa mới, một không gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn. Ở tuổi “sang thu”, con người không còn bất ngờ trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời.
Xưa nay, mùa thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào xạc… Và ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới chính là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến với “Sang thu” của Hữu Thỉnh, người đọc chợt nhận ra một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của “Sang thu”.
Bài thơ kết câu theo một trình tự tự nhiên. Đó cũng là diễn biến mạch cảm xúc của tác giả vào lúc sang thu. Bài thơ gợi cho ta hình dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ – thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Những câu thơ của Hữu Thỉnh như có một chút gì đó thâm trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của người thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.
Bài thơ ngắn với thể thơ năm chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm. Hữu Thỉnh đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhiều cảm xúc tinh nhạy. Đọc thơ Hữu Thỉnh ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
********************
Trích nguồn: c2phanchutrinh.edu.vn Danh mục: Lớp 9