Mọi cuộc cách mạng xã hội đều diễn ra trên một phạm vi hết sức rộng lớn và toàn diện của đời sống xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động.
Vậy cụ thể cách mạng xã hội chủ nghĩa: Nguyên nhân, mục tiêu, đặc điểm, nội dung là gì? Cùng tìm hiểu chi tiết qua bài phân tích dưới đây.
1. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự cải biến xã hội một cách căn bản về chất nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng chính trị, kết thúc bằng việc giai cấp công nhân giành được chính quyền và thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản.
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai giai đoạn: cách mạng về chính trị với nội dung là giành chính quyền, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản; tiếp theo là giai đoạn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cho đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là do mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất trong lòng chủ nghĩa tư bản. Đến chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã mang trình độ xã hội hóa cao độ với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, biểu hiện ra về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đã trở nên gay gắt.
Mâu thuẫn này đặt ra yêu cầu khách quan là phải xoá bỏ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời để thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải mang trình độ xã hội hóa để phù hợp với trình độ xã hội hóa đã đạt được của lực lượng sản xuất. Cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra là một tất yếu lịch sử nhằm giải quyết những mâu thuẫn đó.
Hiện nay trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất hiện đại đã đạt đến mức cao độ khiến cho mâu thuẫn cơ bản trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã hết sức gay gắt và trở thành vật cản lớn của phát triển.
Biểu hiện ở quyền định đoạt tư bản; thao túng các nguồn tư bản lưu động (thông qua thị trường chứng khóan); quyền khai thác, bóc lột tài nguyên và sức lao động đến mức cạn kiệt và ô nhiễm môi trường trầm trọng; quyền sử dụng tư liệu sản xuất vì mục tiêu lợi nhuận, nhiều khi bất chấp các giá trị nhân văn, tiến bộ và phát triển; quyền phân phối sản phẩm lao động xã hội.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại đã trở thành lực cản, kìm hãm, phá huỷ… lực lượng sản xuất, thậm chí dẫn đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
Theo tính toán của các nhà kinh tế, hiện nay năng lực sản xuất xã hội đủ để đáp ứng nhu cầu của nhân loại, nhưng vì lợi ích của mình, giai cấp tư sản vẫn không quan tâm thoả đáng đến nhu cầu phát triển của nhân loại: hàng năm vẫn có hơn 40 triệu người chết đói, khoảng 1tỷ người bị nạn đói đe doạ thường xuyên. Chúng ta đang sống trong thời đại khoa học – công nghệ và kinh tế tri thức, nhưng cứ 6 người trên thế giới có 1 người mù chữ; sự giàu có của chủ nghĩa tư bản hiện đại là kết quả của sự nghèo nàn của châu Á, nợ nần của châu Mỹ La tinh, bần cùng và kiệt quệ tài nguyên của châu Phi.
Rõ ràng chủ nghĩa tư bản vẫn là “một thế giới không thể chấp nhận được”. (Theo Rener Dumon – nhà triết học tư sản Pháp). Tất cả những nghịch lý trên đều có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn giữa chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với thực trạng xã hội hóa của lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa tư bản.
Song, những nguyên nhân kinh tế không trực tiếp làm bùng nổ cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa không diễn ra một cách tự phát mà nó là kết quả của sự trưởng thành về chính trị của giai cấp công nhân, thể hiện cao nhất ở việc hình thành chính Đảng cộng sản của mình để có thể vạch ra đường lối chính trị đúng đắn và khả năng tổ chức thực hiện đường lối đó.
Đồng thời, nó là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại sự thống trị, áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Nếu không có những nhân tố này thì những điều kiện khách quan mà đại công nghiệp và nền sản xuất công nghiệp hiện đại tạo ra chưa thể chuyển hóa thành năng lực cách mạng, do vậy cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng không thể nổ ra và giành thắng lợi.
3. Điều kiện của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì?
Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra và giành thắng lợi, phải có những điều kiện khách quan và chủ quan.
– Những điều kiện khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Những điều kiện khách quan là phải có những mâu thuẫn về kinh tế – xã hội diễn ra gay gắt trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, quyết định nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn kinh tế này đã dẫn đến mâu thuẫn về xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nền đại công nghiệp phát triển cao dựa trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật đã hình thành những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung, làm cho lực lượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hóa cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra một đội ngũ công nhân ngày càng đông về số lượng và cao về chất lượng. Họ gắn bó hữu cơ với nền sản xuất hiện đại và giữ vai trò quyết định trong việc tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, nhưng của cải đó lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt. Điều đó giúp cho công nhân dễ dàng nhận thấy sự bạo tàn của giai cấp tư sản và họ trở thành kẻ thù của giai cấp tư sản; làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt.
Giai cấp tư sản không chỉ áp bức, bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong nước, mà với lòng tham vô hạn, với khát vọng quyền lực, giai cấp tư sản đã tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược các nước khác, biến những nước này thành thuộc địa của chúng. Điều đó còn làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các nước tư bản với các nước thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt.
Những mâu thuẫn trên đã dẫn tới nguy cơ tạo thành cách mạng xã hội và nó đòi hỏi phải được giải quyết bằng cuộc cách mạng xã hội, nhằm xoá bỏ ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, thiết lập một chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
– Những điều kiện chủ quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Những điều kiện khách quan đã tạo ra nguy cơ tạo thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng để cho nguy cơ đó biến thành hiện thực thì phải có những điều kiện chủ quan.
Điều kiện chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất là sự trưởng thành của giai cấp công nhân, đặc biệt là khi nó đã có Đảng tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. Lúc đó, giai cấp công nhân mới có đủ khả năng điều kiện để đứng ra đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình là tổ chức phát động quần chúng nhân dân lao động tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nếu không có điều kiện chủ quan này thì cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn không nổ ra. Bằng chứng là ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp . . . Mâu thuẫn kinh tế – xã hội đã có, những giai cấp công nhân và Đảng cộng sản ở những nước đó chưa muốn phát động cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, sự khống chế của giai cấp tư sản ở những nước đó quá chặt chẽ nên cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa thể nổ ra được. Điều kiện chủ quan thứ hai là sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác để tạo nên lực lượng khổng lồ, sức mạnh to lớn để đảm bảo cho cách mạng thắng lợi.
4. Mục tiêu, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu
Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai cấp công nhân phải tập hợp, tổ chức quần chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt.
Mục tiêu lâu dài và cao nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Động lực
Giai cấp công nhân vừa là động lực cơ bản chủ yếu, vừa là người tổ chức và lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thông qua đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản.
Ở các nước nông nghiệp, nông dân còn chiếm số đông trong dân cư thì giai cấp nông dân là một lực lượng cách mạng hết sức to lớn. Vì vậy, giai cấp công nhân cần phải liên minh với giai cấp nông dân để hợp thành động lực to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đánh giá vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh từng nói: nông dân là lực lượng to lớn, “nếu khéo tổ chức, khéo lãnh đạo thì lực lượng này sẽ làm xoay trời chuyển đất” 1.
Trí thức là một bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ của đất nước, có vai trò hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đánh giá tầm quan trọng của trí thức đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới biết trọng trí thức và chỉ có trong cách mạng xã hội chủ nghĩa trí thức mới được phát huy hết năng lực sáng tạo của mình.
Động lực tổng hợp của cách mạng xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản của giai cấp công nhân; đồng thời đoàn kết rộng rãi các lực lượng tiến bộ, dân chủ, yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới cùng hướng tới mục tiêu: độc lập tự do, dân chủ, tiến bộ, hoà bình và chủ nghĩa xã hội.
Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Trong lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa, lý luận cách mạng không ngừng giữ một vị trí quan trọng.
– Theo quan niệm của Mác và Ph.Ăngghen, cách mạng không ngừng là tiến trình cách mạng gồm hai giai đoạn nhưng phát triển liên tục, mỗi giai đoạn có những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể. Hoàn thành mục tiêu của giai đoạn thứ nhất để tiến tới mục tiêu cuối cùng.
Các ông cho rằng: Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân cần liên kết chặt chẽ với giai cấp nông dân và các lực lượng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến, giành mục tiêu dân chủ. Sau đó, giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân để tiếp tục đấu tranh chuyển sang chống lại giai cấp tư sản và tiến tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
– V. I.Lênin đã phát triển tư tưởng cách mạng không ngừng của C.Mác và Ph.Ăngghen thành lý luận cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Theo V.I.Lênin, trong cuộc cách mạng này, giai cấp công nhân phải giữ vai trò lãnh đạo, liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động nhằm cô lập giai cấp tư sản phản động, lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập chuyên chính cách mạng của công – nông, tạo ra những tiền đề để chuyển sang thực hiện nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hoàn thành giai đoạn thứ nhất (giành chính quyền, giành mục tiêu dân chủ) không phải là mục tiêu cuối cùng, mà phải tiếp tục “cách mạng không ngừng” – tức là chuyển ngay sang thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Muốn thực hiện “cách mạng không ngừng”, chủ nghĩa Mác-Lênin nêu ra ba điều kiện:
Một là: Giai cấp công nhân và Đảng của nó phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo ở cả hai giai đoạn cách mạng kế tiếp nhau liên tục.
Hai là: Phải tổ chức được liên minh công – nông phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản của giai cấp công nhân.
Ba là: Củng cố vững chắc chính quyền dân chủ cách mạng để hoàn thành những nhiệm vụ của giai đoạn thức nhất, đồng thời chuẩn bị những điều kiện để chuyển sang giai đoạn thứ hai – giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng, đặc biệt là lý luận cách mạng tư sản kiểu mới của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thể hiện ở chỗ: Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của nước ta do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt Nam đã giành thắng lợi vào tháng 8/1945. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động tiếp tục cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và giành thắng lợi vào năm 1954. Sau năm 1954, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc chuyển ngay sang thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; miền Nam kiên trì đấu tranh để hoàn thành nốt cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới thống nhất đất nước (1975). Sau năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan.
5. Đặc điểm của cách mạng xã hội chủ nghĩa?
Mọi cuộc cách mạng xã hội đều diễn ra trên một phạm vi hết sức rộng lớn và toàn diện của đời sống xã hội. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt để nhạt trong lịch sử, do vậy, nó phải được tiến hành cải tạo xã hội một cách căn bản trên mọi lĩnh vực xã hội; trong đó vừa cải tạo cái cũ vừa xây dựng cái mới mà xây dựng cái mới là căn bản.
Trên lĩnh vực chính trị:
Nội dung trước tiên của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải thực hiện là đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động, đưa những người lao động từ địa vi nô lệ làm thuê lên địa vị làm chủ xã hội. Bước tiếp theo là cần phải tạo điều kiện làm sâu rộng thêm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà thực chất của quá trình đó là ngày càng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước.
Để nâng cao hiệu quả trong việc tập hợp, tổ chức nhân dân tham gia vào các công việc của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên chăm lo nâng cao kiến thức về mọi mặt cho người dần, đặc biệt là văn hoá chính trị. Bên cạnh việc nâng cao trình độ tri thức cho người dân, Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải quan tâm tới xây dựng hệ thống luật pháp, hoàn thiện cơ chế, có những biện pháp để cho nhân dân lao động tham gia hoạt động quản lý xã hội, quản lý nhà nước.
Trên lĩnh vực kinh tế:
Những cuộc cách mạng trước đây về thực chất chỉ là cuộc cách mạng chính trị, bởi vì, về căn bản nó được kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai cấp này, thay thế bằng sự thống trị của giai cấp khác. Cách mạng xã hội chủ nghĩa, về thực chất là có tính chất kinh tế. Việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động mới chỉ là bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao nâng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, trước hết phải thay đổi vị trí, vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất chủ yếu, thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa với những hình thức thích hợp; thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất.
Cùng với cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tìm mọi cách phát triển lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, trên cơ sở đó từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá:
Trong điều kiện xã hội mới – xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo ra các giá trị tư tưởng – văn hoá mới xã hội chủ nghĩa với những nội dung cơ bản sau:
- Làm cho hệ tư tưởng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành hệ tư tưởng chính thống trong đời sống tư tưởng – văn hoá của toàn xã hội; trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học phổ biến định hướng mọi hoạt động sáng tạo của Đảng và quần chúng nhân dân.
- Trên cơ sở phê phán và kế thừa, nâng cao các giá trị tư tưởng – văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu các giá trị tư tưởng – văn hoá tiên tiến của thời đại, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần thông qua xây dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh quan mới cho người lao động, hình thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, giàu lòng yêu nước thương dân, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo, có hiểu biết, có khả năng giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội.
6. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác
Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Liên minh giai cấp là một trong những nguyên lý quan trọng của học thuyết Mác-Lênin, đồng thời là vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều này được thể hiện rõ khi C.Mác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn lịch sử của các cuộc cách mạng vô sản diễn ra ở Pháp giữa thế kỷ XIX. Mác viết: giai cấp vô sản không thể tiến lên được và cũng không thể đụng đến một sợi tóc của chế độ tư sản chừng nào họ chưa lôi kéo được nông dân và các tầng lớp lao động khác đi theo và ủng hộ.
Vận dụng và phát triển tư tưởng này của C.Mác và Ph.ăngghen trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhất là trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau cách mạng tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin đã nhiều lần khẳng định sự cần thiết phải thực hiện liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác, xem đó như là “nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản”. Trong các tầng lớp lao động đó, Người đặc biệt chú ý đến tầng lớp trí thức bởi họ đại diện cho trí tuệ của dân tộc và đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo tri thức mới và vận dụng những thành tựu của khoa học vào các quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Do đó, thực hiện liên minh công – nông – trí thức chính là để tạo ra động lực to lớn và sức mạnh tổng hợp để tiến hành thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin viết: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được” .
Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động xuất phát từ yêu cầu khách quan của sản xuất. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng một nền kinh tế quốc dân thống nhất bao gồm các lĩnh vực chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, khoa học – công nghệ và các lĩnh vực khác của đời sống để tạo thành cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình sản xuất, mỗi ngành kinh tế có vị trí, vai trò riêng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Song nếu từng ngành kinh tế không nhận được sự hỗ trợ của các ngành kinh tế khác, không liên kết, hợp tác được với nhau thì không chỉ việc sản xuất của từng ngành đình trệ, hiệu quả thấp mà toàn nền kinh tế quốc dân vì thế cũng không thể phát triển được, nhất là ở những nước nông nghiệp lạc hậu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó phải đặc biệt coi trọng sự gắn kết chặt chẽ, khăng khít các ngành kinh tế với nhau.
Từ yêu cầu khách quan của sản xuất như vậy nên các chủ thể của nó là nông dân, công nhân, trí thức và các tầng lớp lao động khác cũng phải gắn bó, liên minh chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện những nhu cầu và lợi ích kinh tế chung của mình.
Xét về mặt chính trị – xã hội, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cần phải có lực lượng, trong đó, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức là ba lực lượng không chỉ chiếm số đông trong dân cư, mà còn là lực lượng cơ bản để thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, do đó phải thực hiện liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động để tạo thành cơ sở của nhà nước, của khối đại đoàn kết toàn dân.
Nguyên tắc cơ bản và nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt những nội dung của liên minh trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa cần bảo đảm những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Đảng cộng sản đối với khối liên minh. Điều này là do địa vị kinh tế, xã hội, chính trị khách quan của giai cấp công nhân quy định. (Giai cấp công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến; có hệ tư tưởng độc lập, khoa học và cách mạng).
Thứ hai: Phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện và kết hợp đúng đắn các lợi ích của các chủ thể trong khối liên minh. Suy đến cùng, liên minh giai cấp được hình thành là nhằm thoả mãn những nhu cầu và lợi ích chung của các chủ thể trong khối liên minh. Nói cách khác, sự thống nhất về lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động là cơ sở và là điều kiện căn bản nhất để thực hiện và tăng cường khối liên minh. Vì vậy, trong quá trình phát triển, nếu lợi ích của lực lượng nào bị vi phạm sẽ rất dễ dẫn đến những rạn nứt hoặc làm ảnh hưởng đến tính bền vững của khối liên minh. Vì vậy, quá trình thực hiện liên minh vừa phải trên tinh thần tự nguyện; đồng thời là quá trình liên tục phát hiện ra mâu thuẫn và kịp thời giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh, nhằm bảo đảm lợi ích thiết thực của các bên. Có như vậy, khối liên minh mới không ngừng được củng cố và tăng cường.
Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
– Liên minh trên lĩnh vực chính trị: Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền nhằm tập hợp lực lượng giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các lực lượng này liên minh chặt chẽ cùng xây dựng nhà nước, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng. Trong quá trình thực hiện nội dung chính trị của liên minh, phải đảm bảo giữ vững lập trường chính trị – tư tưởng của giai cấp công nhân đối với khối liên minh.
– Liên minh trên lĩnh vực kinh tế: Là nội dung cơ bản và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thực hiện liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là vừa phải bảo đảm lợi ích của nhà nước, của xã hội, vừa phải quan tâm đến lợi ích của giai cấp nông dân. Muốn vậy, phải coi trọng xây dựng hệ thống chính sách kinh tế – xã hội phù hợp đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đồng thời thông qua liên minh nhằm thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích chung của các chủ thể trong khối liên minh. Nói cách khác, sự thống nhất về lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động là cơ sở và là điều kiện căn bản nhất để thực hiện và tăng cường khối liên
– Liên minh trên lĩnh vực văn hóa, xã hội: Là một nội dung quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nội dung liên minh này đòi hỏi phải nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; nâng cao trình độ văn hóa cho công nhân, nông dân và nhân dân lao động khác. Xây dựng xã hội nhân văn, nhân đạo, tiến bộ và phát triển bền vững vì con người; các dân tộc đoàn kết, hữu nghị, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển.
7. Mục tiêu cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì?
Mục tiêu cao nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là thực hiện thành công chủ nghĩa cộng sản: biến con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do; tạo nên một thể liên hiệp trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Mục tiêu cao cả nhất đó được thực hiện dần từng bước, trải qua hai giai đoạn cơ bản với mục tiêu cụ thể của nó là: Giai đoạn thứ nhất – chiếm lĩnh quyền lực nhà nước. Giai cấp công nhân phải đoàn kết và lãnh đạo các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ chính quyền nhà nước của giai cấp áp bức, bóc lột; xác lập chính quyền mới – chính quyền cách mạng của nhân dân lao động.
Giai đoạn thứ hai – tổ chức xây dựng xã hội mới. Giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động thành lực lượng sáng tạo lịch sử, xây dựng thành công xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa; trên cơ sở đó mới có thể dần từng bước tiến tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa, tức là thực hiện được mục tiêu cao nhất của nó.
8. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin là lý luận soi đường cho sự phát triển cách mạng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, các nước dân tộc chủ nghĩa, các nước chậm phát triển về kinh tế trong thời đại ngày nay, trong đó có Việt Nam.
– Tính tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam
Xuất phát từ việc thấm nhuần quan điểm, tư tưởng của C. Mác – Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về cách mạng không ngừng, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tiễn cách mạng Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là sự áp bức, bóc lột của thực dân phong kiến đối với quần chúng nhân dân lao động vô cùng dã man, tàn bạo; những phong trào đấu tranh theo xu hướng tư sản và phong kiến đều bị thất bại, Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chí Minh đã nhận thức được tính tất yếu lịch sử của con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản (xã hội chủ nghĩa) . Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức”. Do vậy, người đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, đưa đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03 – 02 – 1930.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời làm cho cách mạng Việt Nam thoát khỏi sự khủng hoảng về đường lối chính trị, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã kết hợp được hai nhiệm vụ: giải phóng dân tộc bị áp bức và giải phóng giai cấp những người lao động. Trên con đường đó, điều đầu tiên là phải tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân (hay còn gọi là cách mạng giải phóng dân tộc) nhằm tạo tiền đề cho việc chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa thực hiện thành công chủ nghĩa cộng sản chính là biến con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, tạo nên một thể liên hiệp trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Phương pháp luận siêu hình là gì? Phương pháp biện chứng là gì?
Hy vọng qua những chia sẻ trên bạn đã có thể hiểu rõ được nguyên nhân, mục tiêu, đặc điểm, nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì.