Vì sao gọi là Đại thừa và Tiểu thừa?
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn một trăm ngày, có 500 vị Thượng toạ trưởng lão (Sthavias) tổ chức cuộc kết tập lần đầu trong hang Saltapanni rừng nigradha cử Tôn giả Ma Ha Ca Diếp làm Thủ tọa, ngài A Nan trùng tuyên những lời Phật dạy làm thành tạnh kinh, cử Ngài Ưu Ba Li đọc lại các điều răn của Phật để kết tập Luật tạng, tôn giả đại Ca Diếp đứng đầu coi việc giải thích đạo lý trong Kinh, làm thành bộ Luận tạng. Gọi chung là Tam Tạng (Tripitaka).
Một trăm năm sau, trong giáo đoàn có sự tranh luận về cách giữ giới luật và cách hành đạo. Các vị trưởng lão Thượng toạ triệu tập cuộc kết tập lần thứ hai ở thành Xá Vệ, đề cử Thượng toạ Yaca làm Thủ toạ. Kết quả phái Thượng toạ trưởng lão vẫn giữ phương thức bảo thủ, phái đại chúng giữ phương thức Tiến Thủ. Nhưng cả hai không rời tôn chỉ của Đức Phật.
Vào khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, vua Asoka (A Dục Vương 227 – 274 trước Tây lịch) triệu tập cuộc kết tập lần thứ ba ở thành Pataliputra.
Vào khoảng 500 năm sau Phật nhập diệt (thế kỷ I sau Tây Lịch) vua xứ Nhục Chi là Kanisnka, giữ bá quyền vùng Tây Bắc Ấn Độ, rất sùng đạo, triệu tập cuộc kết tập lần thứ tư ở thành Jalandhara, do hai Thượng Toạ Pârcya và Vasumitra làm Thủ toạ, đây là cuộc kết tập lần cuối cùng.
Từ đó trong Phật giáo có hai tông phái lớn là: Tiểu Thừa và Đại Thừa, hai bên tuy phân biệt ra như thế nhưng vẫn theo tôn chỉ của Đức Phật. Đại Thừa thì theo tinh thần Phật dạy mà tiến hóa hợp hợp khế cơ. Tiểu Thừa thì một mực trì thủ lời Phật trong các kinh chứ không thay đổi.
Hai tông phái Phật giáo có trong cả Tiểu thừa và Đại thừa
Luật tông:
Tông phái Phật giáo này lấy giới luật làm căn bản. Đến đời Đường, Ngài Trí Thủ luận sư chú giải những bộ luật (Thập tụng luật, Tứ phần luật, Ngũ phần luật, Tăng kỷ luật) và đệ tử của Ngài, Đạo Tuyên luận sư nhận thấy có 68 bộ Luật tứ phần hợp với căn cơ của người Trung Hoa nên đã căn cứ vào bộ luật nầy mà lập “Luật tông ”.
Luật tông chủ trương lấy tu rồi sẽ hiểu, hãy giữ giới cho nghiêm tịnh thì tâm sẽ định tĩnh thanh tịnh và trí tuệ sẽ phát sinh, chân tâm sẽ hiễn bày, Phật tánh sẽ hiễn lộ.
Chủ trương của Luật tông là giữ giới luật một cách nghiêm ngặt. Những quy luật này bao gồm 250 quy định cho tăng và 348 cho ni giới.
Phân biệt Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa
Thiền Tông:
Tông phái Phật giáo này nguyên thuỷ thuộc về Không Bộ bên Tiểu Thừa. Thiền Tông không bàn luận về vũ trụ, căn bản là ngộ đạo mà thôi (giải thoát), là một tông phái lấy tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.
Thiền Tông chủ trương “bất lập văn tự”, chỉ cốt “tâm truyền tâm”, thực tướng của vũ trụ thuộc về trực giác. Nếu lấy văn tự mà giải thích thì tất cả sa vào hiện tượng giới, không thể đạt tới thực tướng được. Phi tọa thiền và trực giác thì không sao biết được thực tướng.
Hai tông phái Phật giáo Tiểu thừa
Câu Xá Tông:
Do ngài Thế Thân Bồ Tát lấy ý nghĩa trong kinh Đại Tỳ Bà Sa (Mahahvibhasacastra) viết thành bộ Câu Xá Luận, được Ngài Trần Châu dịch rồi truyền sang Trung Hoa rất sớm nhung sau đó thất truyền. Đến khi Ngài Huyền Trang sau chuyến Tây du thỉnh kinh mới đem về dịch lại bộ luật này, rồi đệ tử Ngài là Phổ Quang dựa vào mà làm nên “Câu Xá thuật ký” và Ngài Pháp Bảo làm bộ “Câu Xá luận sớ” thì Câu xá mới thành một tông phái là Tông Câu Xá nhưng chỉ thịnh hành đến cuối thế kỷ thứ IX thì suy vong và nhường chỗ cho các tông phái Đại thừa.
Câu Xá Tông chia vạn hữu ra thành Vô Vi Pháp và Hữu Vi Pháp. Vô Vi Pháp chỉ về cảnh giới thường trụ không sinh không diệt, tức là lý thể. Hữu Vi Pháp chỉ về vạn hữu trong hiện tượng giới sinh diệt vô thường.
Căn bản giải thoát dùng Giới, Định, Tuệ để hiểu rõ lý nhân quả của Tứ Diệu Đế. Dùng tam học ấy mà đi tới giải thoát tức là vào Niết bàn.
Phật giáo Việt Nam có mấy tông phái?
Thành Thực Tông:
Tông này đồng thời với Câu Xá Tông, do ngài Ha Lê Bạt Ma (Harivarma) y vào ý nghĩa Bộ Thành Thật Luận mà lập ra vào khoảng 900 năm sau khi Đức Phật nhập diệt.
Thành Thực Tông chia thế giới quan ra làm hai môn : Thế giới môn và đệ nhất nghĩa môn.
Tông này chủ trương “Nhân không và Pháp không”. Người và Pháp cả hai đều không. Thi hành Diệt đế, chân lý thứ 3 trong Tứ Diệu đế cũng đủ an lạc, giải thoát lục đạo.
Sáu tông phái Phật giáo Đại thừa
Pháp Tướng tông:
Tông này lấy Thành Duy Thức Luận làm gốc, tại Ấn độ do Ngài Thế Thân phát triển và tại Trung Hoa do Ngài Huyền Trang truyền bá sau chuyến Tây du thỉnh kinh trở về.
Chủ trương vạn Pháp đều do thức biến ra. (Tam giới duy tâm, vạn Pháp duy thức) Thức có 8 : Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức, Mạt Na Thức. Trong 8 thức thì A Lại Gia Thức là căn bản, vì chứa hết thảy Chủng Tử để sinh khởi nhất thiết chư Pháp.
Tam Luận Tông:
Tông này lấy Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận của Ngài Long Thọ Bồ Tát và Bách Luận của Ngài Đề Bà làm căn bản, chủ trương là phá chấp nêu bày chánh lý với phương pháp tu hành là phá sự chấp trước của ngọai đạo để chứng ngộ chân lý bằng cách quán pháp “Bát bất trung đạo”.
Về phương diện đạo lý, Tam Luận tông giống như cửa ải muốn tiến bước trên con đường giải thoát phải buông bỏ “Chấp trước”, nếu không muốn bị phát hiện món hàng quốc cấm đó khi qua ải.
Thiên Thai Tông (Pháp hoa tông):
Tông phái Phật giáo này khởi phát ở Trung Hoa, do ngài Huệ Văn Thiền Sư đời Trần và đời Tuỳ (vào khoảng thế kỷ thứ 6 ) theo ý nghĩa bộ Trí Độ Luận tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa luận và lấy Pháp Hoa Kinh làm gốc, nên còn gọi là Pháp Hoa Tông.
Chủ trương của tông phái Thiên Thai này là xem mọi vật đều bình đẳng, mọi vật đều liên hệ lẫn nhau. Giáo pháp này được gọi là “nhất thể” – vì Hoa nghiêm quan niệm rằng tất cả đều từ Một mà ra và mọi hiện tượng chẳng qua là dạng xuất hiện của cái Một đó. Đó là các hiện tượng của Pháp giới (zh. 法界, sa. dharmadhātu), chúng cùng xuất hiện đồng thời. Tất cả các pháp (sa. dharma) đều có 6 đặc điểm (lục tướng 六相) trong ba cặp đối xứng là toàn thể và riêng biệt; giống nhau và khác biệt; hòa nhập và riêng tư. Dạng tĩnh của Chân như (zh. 真如, sa. tathatā) là tính Không (空, sa. śūnyatā), tức là Lý (理), dạng động là Sự (事). Lý và Sự tương tác qua lại với nhau mà sinh ra toàn thể vạn vật.
Giáo pháp của Hoa nghiêm tông xuất phát từ quan niệm cho rằng, tất cả đều từ Pháp thân (Tam thân) mà ra, mọi pháp trong thế gian đều phụ thuộc lẫn nhau, không có pháp nào tồn tại độc lập.
Tất cả mọi pháp đều trống rỗng, hai mặt của Không đó là tĩnh (lý) và động (sự) đều cùng lúc tồn tại, xuyên suốt vào nhau, không ngăn ngại; mỗi hiện tượng đều đồng nhất với hiện tượng khác. Quan điểm này được Pháp Tạng trình bày qua một ẩn dụ nổi tiếng: con sư tử vàng. Sư tử biểu hiện cho thế giới hiện tượng (Sự). Vàng là lý, vàng không có một dạng riêng tư, phải xuất hiện dưới một dạng nhất định, nhưng dạng nào cũng được. Mỗi một bộ phận của con sư tử đều bằng vàng. Trong mỗi bộ phận đều có cái toàn thể và ngược lại, cái toàn thể hiện lên trong mỗi bộ phận. Mỗi hiện tượng đều là thể hiện của một cái lý duy nhất và mỗi hiện tượng nói lên tất cả mọi thứ khác. Vàng và sư tử hiện diện đồng thời, phụ thuộc lẫn nhau, bao hàm lẫn nhau. Pháp Tạng cho rằng mọi hiện tượng trong thế gian đều diễn tả cái lý đó.
Hoa Nghiêm Tông (hay Hiền Thủ tông):
Tông phái Phật giáo này cũng phát khởi ở Trung Hoa căn cứ ở Hoa Nghiêm Kinh do Đỗ Thuận và Trí Nghiêm Hoà Thượng ở đời Tuỳ và Đường lập ra, người có công kế thưà và xiển dương là là Ngài Pháp tạng còn gọi là Hiền Thủ.
Tông này theo chủ trương “Pháp giới duyên khởi” Vạn hữu có tam đối lục tướng là do thập huyền môn, thập huyền diệu, lý duyên khởi và lục tướng viên dung mà phát sinh lý “Sự sự vô ngại”. Đây là cái đặc sắc của giáo lý Hoa Nghiêm Tông.
Theo Tông này thì phân biệt chân vọng dứt trừ điên đảo. Để tâm thanh tịnh cùng thực tại Nhất Như là giải thoát.
Vì sao Phật giáo có nhiều tông phái?
Mật tông (hay Chân Ngôn Tông):
Mật Tông (zh. 密宗 mì-zōng) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ. Mật Tông lại chia thành hai phái: Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna). Sự phát triển của Mật Tông gắn với các luận sư nổi tiếng như Subha Karasimha (Thiên Vô Úy, 637-735), Vajra Bodhi (Kim Cương Trí, 671-741), Amoghavajra (Bất Không Kim Cương, 705-774), Padmasambhava (Liên Hoa Sinh, cuối thế kỷ thứ VIII), Dipankarasrijanàna (Atisa, cuối thế kỷ thứ XI). Padmasambhava và Dipankarasrijanàna là những người có công đưa Mật Tông vào Tây Tạng và trở thành tôn giáo chính ở đây.
Tông phái Mật Tông căn cứ ở Đại Nhật Kinh, lấy bí mật Chân Ngôn làm Tông chỉ, nên cũng gọi là Mật Tông. Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cương Tát Đỏa, Kim Cương Tát Đỏa truyền cho Long Trí, Long Trí truyền cho Kim Cương trí, Kim Cương Trí cùng với Bất Không đem qua trung Hoa vào khoảng đời Đường. Chân Ngôn Tông chủ trương thuyết Lục đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Cho lục đại là thực của vũ trụ.
Sự giải thoát của Tông nầy là do tự thân thành Phật, cho nên bỏ hết chấp trước mà theo cái hoạt động của Đại ngã với phương thức Tam mật (Thân, Khẩu, Ý).
Tịnh Độ Tông:
Tông phái Tịnh Độ lấy việc quy y tịnh độ làm mục đích, chuyên trì tụng các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, A Di Đà. Tịnh Độ Tông phát khởi từ đời nào không rõ, chỉ thấy trong kinh điển ghi các vị Bồ Tát Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân khuyên mọi người nên tu Tịnh Độ. Tịnh Độ Tông cho rằng mỗi người ai cũng có Phật tính, đều có thể thành Phật, vì ở thế gian phiền não nên cầu về cõi Cực Lạc Tây Phương. Vì tự lực khó đạt nên cầu tha lực Đức Phật A Di Đà.
Mục đích của phép niệm danh hiệu A-di-đà là tìm cách chế ngự tâm. Thường thường hành giả tự đặt cho mình một chỉ tiêu niệm bao nhiêu lần. Phép quán niệm này được xem là có thể giúp hành giả “thấy” được A-di-đà và hai vị Bồ Tát tả hữu là Quán Thế Âm (sa. avalokiteśvara) và Đại Thế Chí (sa. mahāsthāmaprāpta) và biết trước được giờ chết của mình. Phép niệm này có thể thực hiện bằng cách đọc to hay đọc thầm, không nhất thiết phải có tranh tượng A-di-đà. Đó là cách tu thông thường nhất. Ngoài ra hành giả có thể thực hiện phép thứ 16 trong Vô lượng thọ kinh, bằng cách tạo linh ảnh của A-di-đà và thế giới Cực lạc, xem như hiển hiện trước mắt. Phép tu cao nhất của tông này là tự xem thể tính của mình chính là A-di-đà. Tất cả mọi hành giả của Tịnh độ tông đều mong muốn được thấy A-di-đà trong một linh ảnh, đó là bằng chứng chắc chắn nhất sẽ được tái sinh trong cõi Cực lạc. Niệm danh hiệu và tạo linh ảnh là điều kiện “bên ngoài”, lòng tin kiên cố nơi A-di-đà là điều kiện “bên trong” của phép tu này, với hai điều kiện đó thì hành giả mới được tái sinh nơi cõi Cực lạc.
Ngày nay Tịnh độ tông là tông phái Phật giáo phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.