1. Ăn chay theo quan điểm của Phật Giáo:
Phật giáo Nguyên thủy cho rằng ăn cách nào cũng được, tùy theo cách ăn để đủ sức khỏe mà tu theo đạo Phật, ăn chay mà cơ thể xanh xao, tinh thần yếu ớt thì rất có hại đã không tiến hóa, mà còn là chướng ngại cho sự tu hành. Họ lập luận rằng việc ăn chay không tồn tại trong thời kỳ đầu của Phật giáo và bản thân Đức Phật cũng không ăn chay, và việc ăn chay là một nét đặc trưng của Phật giáo Đại thừa Trung Quốc, bắt đầu từ thời Trung cổ. Thời nhà Minh, Hòa thượng Vạn Thê Châu Hoằng (1565-1615) và đương nhiên Phật giáo Bắc truyền đã truyền bá mạnh mẽ vào Việt Nam. Trước đó, Phật giáo Trung Quốc cũng không coi việc ăn chay là quan trọng đối với việc tu hành.
Phật giáo Nguyên thủy cho rằng chính Đức Phật không đặt ra vấn đề ăn chay, sự giải thoát không phải do ăn mà do ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh lời nói, và thanh kiếm trong tâm trí. Nếu không giữ giới gọi là ăn chay. Đức Phật và các đệ tử của Ngài đều theo truyền thống khất thực. Người cúng dường có thể ăn bất cứ thứ gì mình thích, không cần chọn lựa, “ăn để tu Đạo” chứ không phải “sống để ăn để hưởng”.
Tất cả các nhà sư Tăng Nam Tông, lên đến hàng triệu người, ở các quốc gia Phật giáo như Ceylon, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào và một phần của Việt Nam tiếp tục duy trì truyền thống này. Họ cho rằng bản thân mình không sát sinh, không khuyến khích người khác sát sinh, không lấy làm vui thích trong việc sát sinh, do đó không phạm giới sát sinh.
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật dạy các Tỳ kheo, nếu thực hành đầy đủ ba pháp: “Tự mình từ bỏ sát sinh, khuyến khích người khác từ bỏ sát sinh, và nếu vui mừng từ bỏ sát sinh thì sẽ được tái sinh lên các cõi trời.”
Trong Đường-Hàm, quyển 37, khi bàn về vấn đề sát sinh có nói như sau:
“Tôi muốn sống. Khi tôi đã lấy đi cuộc sống và hạnh phúc đó từ họ. Chẳng những thế, cái gì ta không thích, người khác cũng không thích. Nếu vậy, tại sao ta lại làm cho người khác như ta làm cho mình?” (Tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy, Kimura Taiken, Hán dịch: Thích Diễn Bội, Việt dịch: Thích Quảng Độ)
Thực ra, mục đích căn bản của Phật giáo về giới luật là không làm điều ác, làm điều lành và giữ tâm thanh tịnh. Giác ngộ và giải thoát không phải do ăn chay hay ăn thịt mà do thân, khẩu, ý thanh tịnh. Tất cả những gì có hại cho thân tâm, gia đình, xã hội, quốc gia, nhân loại, thậm chí cho tất cả chúng sinh, đều được quy định bởi năm giới cấm sát sinh cơ bản là giới luật đầu tiên của đạo Phật.
Trong kinh điển Nguyên Thủy, Đức Phật sau khi nghe Devadatta yêu cầu ban hành giới cấm các Tỳ kheo không được ăn cá, Đức Phật đã không chấp nhận và Ngài đã truyền dạy. “Việc ăn cá có thể được coi là ba tịnh (tam tịnh thịt) khi người ăn không thấy, không nghe, không nghi là con vật đã giết cho mình”.
Chúng ta nên nhớ rằng, khi Đức Phật còn tại thế, các Tỳ kheo đi khất thực. Bữa ăn hàng ngày, tùy lòng hảo tâm của mười phương bỏ món gì vào bát, chư Tỳ khưu lặng lẽ thọ nhận với tâm không phân biệt ngoại trừ thức ăn không được Đức Phật cho như đã nói ở trên.
Theo giới luật xuất gia thời Đức Phật còn tại thế, Tăng Ni không được xin vật này, vật kia mà Phật tử vui lòng cúng dường, và đều nhận lấy với tâm bình thản, không phân biệt. Thức ăn chỉ để tồn tại.
Ngày nay ở những quốc gia mà các Tỳ kheo không thể đi khất thực, việc ăn uống hoàn toàn phụ thuộc vào các nhóm Phật tử tại gia, những người sẵn sàng hỗ trợ các nhà sư. Phật tử tự nguyện đi chợ mua sắm và nấu ăn phục vụ chư Tăng.
Trên đây là tóm tắt quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy về ăn chay. Họ có lý do để tin rằng ăn chay hay không ăn chay không quan trọng trong việc thực hành Phật giáo. Họ cho rằng dính mắc hay không dính mắc mới quan trọng đối với tâm, khi tâm quá dính mắc vào những ý niệm tốt xấu hay ăn chay sẽ sinh ra lo lắng sợ hãi không biết phải làm sao. Chẳng hạn như khi quét nhà vì sợ kiến chết hoặc sợ dẫm phải sẽ làm chết côn trùng hoặc làm hỏng cây cối. Họ cũng thường trích dẫn kinh Amagandha mà Đức Phật đã giảng cho Jivaka rằng “hành vi xấu của một người phạm nhiều tội còn tệ hơn ăn nhiều cá”.
Họ tin rằng điều khiến con người trở nên ô uế không phải là ăn cá mà là hận thù, mê tín, xảo quyệt, kiêu ngạo và có xu hướng đi theo con đường bất chính.
Tóm lại, Phật giáo cho rằng không có giới luật nghiêm ngặt nào trong Phật giáo quy định rằng những người theo Đức Phật không được ăn thịt và cá và bắt buộc tất cả các Phật tử phải ăn chay. Họ cũng tin rằng Đức Phật chỉ khuyên không nên cố ý giết hại hoặc không yêu cầu người khác giết bất kỳ chúng sinh nào cho mình ăn.
2. 10 ngày ăn chay là ngày nào?
Số ngày ăn chay sẽ tùy thuộc vào niềm tin và điều kiện của mỗi người. Đạo Phật không bao giờ quy định hay buộc tín đồ phải tuân theo nghĩa vụ ăn chay nghiêm ngặt. Thường vào các ngày mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 âm lịch. Tuy nhiên, cũng có người ăn chay 4 hoặc 2 ngày trong tháng.
Sở dĩ người Phật tử chọn 10 ngày trong tháng để ăn chay là để tự nhắc nhở mình: Hãy tu tập, mở rộng lòng từ bi, không giết hại loài vật để làm thức ăn cho mình. Ngoài ra, lịch ăn chay 10 ngày, trong đó có 30 ngày cuối tháng nhằm nhắc nhở người Phật tử nhớ lại một tháng cũ đã qua. Sống ý nghĩa hơn, tập luyện chăm chỉ hơn trong tháng mới. Bởi theo quan niệm của đạo Phật, mọi sự trên đời đều có duyên khởi và luôn tác động lẫn nhau như thời gian. Cuối tháng cũ cũng là đầu tháng mới, ai cũng cần nhìn lại mình.
Thông thường, những người theo đạo Phật lâu năm thường lên lịch ăn chay 10 ngày trong tháng. Có thể chuyển dần sang ăn chay nếu cơ thể khỏe mạnh, không bệnh tật.
3. Phương thức ăn chay:
Chay trường là phương pháp nhịn ăn trong thời gian dài. Người Phật tử tự nhiên ăn uống thanh đạm, không giết hại chúng sinh.
Ăn chay là phương pháp sử dụng thực phẩm chay vào những ngày cố định trong tháng. Thường là 10 ngày và cũng có cách gọi riêng cho số ngày ăn chay trong năm, trong tháng. Người con thứ mỗi tháng ăn chay hai lần vào ngày mồng một và ngày rằm. Tứ trai ăn chay một tháng bốn lần vào ngày 1, 14, 15 và 30 tháng Giêng. Hầu hết các cậu bé ăn chay trong một tháng, thường là tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười. Sáu chàng trai kiêng ăn vào các ngày 8, 14, 15, 23, 29, 30. Lịch ăn chay 10 ngày trong một tháng gọi là Thập giới.
4. Lợi ích của việc ăn chay:
4.1. Ăn chay giúp da khỏe mạnh:
Làn da khỏe mạnh được cung cấp đầy đủ vitamin, khoáng chất và nước. Trái cây và rau củ chứa hàm lượng vitamin và chất chống oxy hóa cao giúp làn da khỏe mạnh và ngăn ngừa bệnh tật.
4.2. Ăn chay giúp giảm cholestrol:
Thông thường trong mỡ động vật có chứa những chất không tốt cho sức khỏe nên sẽ làm tăng hàm lượng cholesterol trong cơ thể. Khi ăn chay sẽ cung cấp cho bạn đủ lượng cholesterol cần thiết cho cơ thể mỗi ngày.
4.3. Ăn chay giúp cải thiện việc trao đổi chất:
Thức ăn chay dễ tiêu hóa nên khi ăn chay, hệ tiêu hóa của con người sẽ không phải làm việc quá sức. Ngoài ra, tỷ lệ trao đổi chất ở người ăn chay khá cao nên sẽ giúp cơ thể đốt cháy nhiều năng lượng hơn nên dễ dàng giảm cân hơn.
4.4. Ăn chay giúp bạn giảm nguy cơ ưng thư:
Ăn chay giúp bạn giảm nguy cơ mắc một số loại ung thư và ngăn ngừa một số loại ung thư, đặc biệt là ở phụ nữ. Chế độ ăn chay sẽ phần nào giảm thiểu nguy cơ ung thư ruột kết. Theo nghiên cứu, ăn đủ rau củ quả tươi trong chế độ ăn chay là yếu tố quan trọng giúp bạn giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư.
4.5. Ăn chay giúp bạn tăng sức khỏe xương:
Hiện nay, tỷ lệ mất xương ở người ăn chay thấp hơn so với dân số nói chung. Các sản phẩm từ động vật sẽ đẩy canxi ra khỏi cơ thể gây mất canxi và loãng xương.
Mặc dù ăn chay mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe. Tuy nhiên, bạn vẫn cần chú ý ăn chay đúng cách để tránh thiếu hụt dinh dưỡng cho cơ thể. Khi ăn chay, bạn cần đảm bảo cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể. Là nhóm chất dinh dưỡng protein, sắt, canxi, vitamin D, omega-3, kẽm, vitamin B12.
Lợi ích của việc ăn chay đúng cách sẽ giúp bạn giảm thiểu và ngăn ngừa nhiều bệnh tật. Tuy nhiên, bạn nên trao đổi với bác sĩ trước khi ăn chay để đảm bảo rằng bạn đang cung cấp đủ chất dinh dưỡng hàng ngày cho một cơ thể khỏe mạnh.