1. Trong dịp tĩnh tâm năm của linh mục, một cha mua được một cuốn sách về nghi thức an táng, trong đó có đề cập đến “tẩm liệm”, tôi nói: “Tẫn liệm” mới đúng, sao lại in “tẩm liệm”. Cha ấy nói: “Dùng quen rồi không sửa lại nữa”. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên, chữ dùng sai không sửa, chỉ vì dùng quen rồi. Tôi mới trả lời : “Cha tra từ điển coi”. Tôi tưởng đơn giản, nhưng thực ra không đơn giản chút nào. Vì hầu hết các từ điển hay tự điển (xem phần Sách tham khảo) đều không có từ “tẫn liệm” hay “tẩm liệm”, chỉ có những cuốn sau đây mới có:
1. ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ (4)
Tẩm: Ngâm, dầm.
tẩm thuốc = Dùng nước gì mà dầm thuốc.
tẩm rượu = Dầm với rượu, ngâm với rượu.
Tẫn: Phong gói tử thi mà để vào hòm, liệm.
tẫn liệm;
quàn tẫn = liệm mà để lại, chưa chôn.
Liệm: Để tử thi vào hòm.
Tẫn liệm: Liệm mà để lâu, quàn lại cũng có nghĩa là liệm.
2. TỪ ĐIỂN TRUNG VIỆT (9)
Tẫn: (In sai tẩn) Quàn áo quan lại chưa chôn.
Liệm: Cho tử thi vào áo quan.
Tẩm: Thấm, ngâm, tẩm tưới, dần dần.
3. VIỆT NGỮ CHÁNH TẢ TỰ VỊ (10)
Tẩm: Thấm, ngâm; thấm lần lần.
tẩm bổ; dâm tẩm, nhập tẩm, nhiễm tẩm; nhuận tẩm; tẩm tiệm.
Tẫn: Phong gói tử thi mà để vào hòm.
Liệm: Bó xác người chết mà để vào hòm.
liệm táng; đại liệm; khâm liệm; nhập liệm; tẫn liệm; tiểu liệm;
trang liệm.
4. VIỆT NAM TỰ ĐIỂN (11)
Tẫn: Dùng hàng vải gói ghém thây người chết để trong hòm.
Tẩm: Dầm, ngấm cho thấm.
5. TỪ ĐIỂN HÁN VIỆT (12)
Tẫn: Xác đã liệm nhưng chưa chôn.
Liệm: Đặt người chết vào áo quan.
Tẫn liệm: Khâm liệm; bó.
Tuy nhiên, vì phần lớn các từ điển đều không có từ “tẫn liệm” hay “tẩm liệm”, kể cả cuốn TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT của Viện Ngôn Ngữ Học, 2005 (14) TỪ ĐIỂN CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT, của PGS Tiến Sĩ Nguyễn Trọng Báu, 2005 (15) cũng không có, nên chúng ta phải tìm lại nguồn gốc của chữ “tẫn”.
2. Tẫn chữ Hoa viết là: 殯gồm có bộ歹(đãi) và chữ賓(tân).
Đãi nghĩa là thi thể của người chết; tân là lễ viếng người chết, như người khách. Chữ tân賓còn có nghĩa là khách, tức là không có dừng lại lâu, nên phải làm cho tốt đẹp việc tiễn đưa. Nghĩa chính của chữ tân賓là người chết nằm trong áo quan sẽ được dời đi chôn, khách đến viếng.
Chữ Hoa là loại chữ biểu ý, gồm 4 thể loại: tượng hình, chỉ sự, hội ý và hình thinh. Chữ殯(tẫn) thuộc về thể loại hội ý và hình thinh. Bộ歹(đãi) có nghĩa là chết, chữ賓(tân) có nghĩa là khách, nên thuộc thể loại hội ý. Và bộ歹(đãi) tượng trưng cho sự chết, chữ 賓 (tân) tượng trưng cho âm thanh, nên cũng thuộc thể loại hình thinh.
Theo ngữ học, chữ “tẫn” (殯) có những ý nghĩa sau:
Danh từ: 1. Linh cữu liệm rồi mà chưa chôn, gọi là tẫn.
2. Việc liệm và chôn, gọi là tẫn.
Động từ: 1. Đặt áo quan rồi đưa thi thể vào liệm.
2. Quàn tạm.
3. Chôn cạn để sau này cải táng.
4. Mai một.
Còn chữ “tẩm” (浸) vốn chữ xưa viết 濅, là thể hội ý, viết bộ 氵(thuỷ), có nghĩa : ngâm, dầm, nhúng, thấm, ngấm, là đưa vật vào nước cho ướt thấm cả để làm sạch, nên đi với bộ thuỷ, và chữ bên cạnh cho âm Tẩm. Nói chung là đưa vật vào nước thì vật sẽ được sạch. Có nghĩa là thấm, ngâm; thấm lần lần; làm cho một chất lỏng ngấm vào. Ngoài ra còn có nghĩa:
1. Chìm.
2. Tưới.
3. Nhuận, dùng đầu, nước làm cho đỡ khô,
4. Rửa.
5. Sâu.
6. Có bổ ích.
7. Dần dần.
8. Nhìn sơ,
9. Phạm, thông với chữ “Xâm”.
10. Từ gọi chung dầm ao.
Như thế, chữ tẩm hoàn toàn không có nghĩa là liêm xác chết. Nên khi người ta ướp xác thì nói là “tẩm xác”. Còn khi phong gói tử thi mà cho vào hòm thì nói là “tẫn liệm”.
Ở Việt Nam hiện giờ hầu như không ai ướp xác nữa, cho nên chúng ta nên dùng chữ “tẫn liệm”, thay vì chữ “tẩm liệm”.
Thực tế, tôi có đi vòng quanh nhiều trại hòm trong khu vực Chợ Lớn, người ta chỉ dùng chữ “tẫn liệm” hay “nhập quan”, chứ không thấy dùng chữ “tẩm liệm”. Hình như hiện giờ chỉ có nhà đạo mới dùng sai từ “tẩm liệm”.
Sách tham khảo: (Xếp theo Năm xuất bản)
1. TỪ ĐIỂN ANNAM – LUSITAN – LATINH (TỪ ĐIỂN VIỆT – BỒ – LA) Biên soạn: Alexandre de Rhodes, Roma, 1651. Phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính. Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1991, khổ 14,5 x 20. Không có chữ tẫn.
2. TỪ VỰNG ANNAM – LATINH (VOCABURARIUM ANNAMITICO – LATINUM) par Mgr Pierre Pigneaux de Béhaine, membre des Missions Étrangères de Paris, évêque d’Adran, vicaire apostolique de Cochinchine, Cambodge et Ciampa.
Sách được giới-thiệu như sau : ‘’Cuốn tự-vị viết tay này dầy 729 trang, khổ A3, là sách đầu tiên trong lịch-sử Việt-Nam trình-bầy cả hai lối chữ, chữ Nôm và chữ quốc ngữ viết theo mẫu-tự La-tinh, và dịch sang tiếng La-tinh. Sách được biên soạn trong những năm 1772 và 1773, do Pierre Pigneaux de Béhaine, trong khi phải lưu đày tại Pondichéry, với sự giúp đỡ của tám người Đàng Trong’’
3.TỪ ĐIỂN ANNAM – LATINH (DICTIONARIUM ANAMITICO – LATINUM)
Ex Opere Ill. et Rev. Taberd constans Necnon AB Ill. et Rev. J.S. Theurel Nxb: ???, Serampore Mashman, Ấn Độ, 1838. Nxb: Ninh Phú, in lần thứ 2, 1877. Khổ 18,5 x 26, 566 trang (và Appendix 71 trang).
4. ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ (DICTIONNAIRE ANNAMITE) Biên soạn: Huỳnh Tịnh Paulus Của Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Saigon, 1895 Khổ 23 x 30, tập I: A-L: 608 trang, tập II: N-X: 596 trang. Nxb: Khai Trí, Sài Gòn, 1974.
5. TỰ VỊ ANNAM – LATINH (LEXICON ANAMITICO – LATINUM) Biên soạn: (Khuyết danh). Nxb: Ninh Phú, in lần thư hai. 1899, Khổ 13 x 19, 153 trang
6. VIỆT NAM TỰ ĐIỂN Biên soạn: Hội Khai Trí Tiến Đức (khởi thảo). Imprimerie: Trung Bắc Tân Văn, 1931, khổ 24 x 31,5, 663 trang Nxb: Văn Mới, Sài Gòn, 1954, 662 trang Không có chữ tẫn.
7. HÁN VIỆT TỪ ĐIỂN (GIẢN YẾU) Biên soạn: Đào Duy Anh Nxb: Tiếng dân, Huế, 1932, in lần thứ nhất. Nxb: Paris, Minh Tân, 1936, in lần thứ hai. Nxb: Trường Thi, Sài Gòn, 1957, in lần thứ ba, khổ 14 x 20. Quyển thượng: 542 trang, quyển hạ: 596 trang. Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1992, khổ 14,5 x 20 Quyển thượng: 588 trang, quyển hạ: 605 trang. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1996, khổ 13 x 19. Không có chữ tẫn.
8. HÁN VIỆT TỪ ĐIỂN Biên soạn: Thiều Chửu. Nxb: Đuốc Tuệ, Hà Nội, 1942, in lần thứ nhất. Nxb: Hưng Long, Sài Gòn, 1966, in lần thứ hai. Nxb: Tp.HCM, 1993, khổ 14,5×20,5, 807 trang+muc lục tra theo vần 92 trang. Nxb: TP. Hồ Chí Minh, 1997, khổ 14,5 x 20,5, 809 trang. (Đã tái bản trên 10 lần). Không có chữ tẫn, nhưng lai có chữ tấn có nghĩa là liệm xác.
9. TỪ ĐIỂN TRUNG – VIỆT Biên soạn: Văn Tân. Nxb: Sự Thật, Hà Nội, 1956. Khổ 16 x 23, 1418 trang.
10. VIỆT NGỮ CHÍNH TẢ TỰ VỊ Biên soạn: Lê Ngọc Trụ Nxb: Thanh Tân, Sài Gòn, 1959. Khổ 14,5 x 20,5.
11. TỪ ĐIỂN VIỆT NAM Biên soạn: Lê Văn Đức. Nxb: Khai Trí, Sài Gòn, năm xuất bản 1970. Quyển thượng A-L, 966 trang, quyển hạ M-X: 999 trang
12. TỪ ĐIỂN HÁN – VIỆT HIỆN ĐẠI Biên soạn: Nguyễn Hữu Cầu (chủ biên) và nhiều tác giả. Nxb: Tôn Giáo, Hà Nội, 1994, khổ 16 x 24, 1744 trang.
13. ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT Biên soạn: Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Vũ Quang Hào, Phan Xuân Thành. Nxb: Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1999, khổ 19 x 27, 1.890 trang. Không có chữ tẫn.
14. TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT Biên soạn: Viện Ngôn Ngữ Học Nxb: Hà Nội, 2005.
15. TỪ ĐIỂN CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT Biên soạn: PGS Tiến Sĩ Nguyễn Trọng Báu Nxb: Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2005.