1. Ngôi kể là gì?
Ngôi kể được định nghĩa là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng khi kể chuyện.
– Bằng cách gọi tên nhân vật, người kể ẩn mình, tức là ở ngôi thứ ba, người kể có thể linh hoạt, tự do về những gì xảy ra với nhân vật.
– Bằng việc tự xưng là “tôi” trong ngôi kể thứ nhất, người kể có thể trực tiếp nói ra những gì mình nghe, thấy, trải qua và có thể bộc lộ trực tiếp cảm xúc, suy nghĩ của mình.
– Để cách kể linh hoạt, hấp dẫn, người kể có thể chọn người kể phù hợp với mình.
– Người kể chuyện xưng “tôi” của tác phẩm không nhất thiết phải là chính tác giả.
2. Có các loại ngôi kể nào?
Tường thuật ở ngôi thứ nhất.
Khi người kể chuyện xưng “tôi” là ngôi thứ nhất.
Ví dụ: Trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” anh thanh niên xưng là “tôi” nhưng “tôi” không chỉ ra tác giả Nguyễn Thành Long mà là nhân vật anh thanh niên.
Người kể có thể trực tiếp nói ra những gì mình nghe, thấy, nghĩ…
Đây cũng là cách kể thông thường của văn bản tự sự
Tường thuật ở ngôi thứ ba
Người kể gọi tên các nhân vật: gọi chính tên của chúng, tự giấu mình đi như là không có mặt, không có sự tôn tồn tại của mình trong câu chuyện đấy hay mình chỉ đứng ngoài lề
Người kể chuyện có thể linh hoạt và tự do nói về những gì xảy ra với một nhân vật.
Đây là một cách kể thường được sử dụng
3. Vai trò của các ngôi kể:
Khi kể, người ta có thế hoàn toàn tự do lựa chọn ngôi kể (hoặc ngôi thứ ba, hoặc ngôi thứ nhất).
Tường thuật ngôi thứ nhất: Có hai kỹ năng.
Nhân vật “tôi” là tác giả (thường gặp trong hồi ký, tự truyện).
Nhiều lúc “tôi” không phải là tác giả, mà hoàn toàn do tác giả tạo ra. Khi đó “tôi” chỉ là một nhân vật trong truyện, kể về mình, những gì mình nghe thấy, nhìn thấy…
Khi đã sử dụng ngôi thứ nhất, tác giả vẫn có thể thay đổi người kể, nhân vật kể chuyện.
Ưu điểm: Mang tính chủ quan, thể hiện được những cảm xúc sâu trong tấm lòng của nhân vật hay chính tác giả
Nhược điểm: Thiếu tính khách quan.
Tường thuật bằng ngôi thứ ba:
Người kể chuyện ẩn minh đi và gọi các nhân vật bằng tên riêng của họ.
Ưu điểm: Tính khách quan thấy rõ.
Nhược điểm: Thiếu tính chủ quan.
4. Tác dụng của ngôi kể:
4.1. Tường thuật bằng ngôi thứ nhất:
Làm nhiệm vụ dẫn dắt, kể lại toàn bộ câu chuyện, được đóng bởi một người kể chuyện tự xưng là “tôi” – người được coi là “người nói duy nhất” đầu tiên (người có khả năng kể toàn bộ câu chuyện, không ngừng nghỉ, tham gia vào câu chuyện theo nhiều cách). Tác phẩm mở đầu và kết thúc bằng lời kể của người kể chuyện, hai người kể chuyện ở cùng một tầng truyện, có sự trao đổi hai chiều, đối ngẫu. Nếu không có sự hướng dẫn và truyền đạt của cái “tôi” thì nhân cách sẽ không thể hiện đầy đủ. Ngược lại, nhờ quá trình tương tác với nhân vật chính, tính cách của “tôi” cũng được thể hiện một cách tự nhiên, chân thực với tư cách là nhân vật phụ. Liên hệ với các nhân vật, người đọc dễ dàng nhận thấy cả hai người kể chuyện đều là những trí thức thất bại trong tâm trạng cô đơn, buồn chán, hoang mang, bồn chồn, đều có những đặc điểm nhất định gần gũi với tâm thức, tư tưởng, tình cảm của tác giả.
Như vậy, nó vẫn mang đặc điểm chung của truyện kể theo ngôi thứ nhất, theo điểm nhìn đa tuyến được kể từ điểm nhìn ý thức của nhân vật. Ở đây, các trạng thái tinh thần thường hiện ra từ câu chuyện: suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc…. Người kể không chỉ kể chuyện (tả điều tôi “thấy”), mà còn kể cả tâm trạng (tả điều tôi “cảm thấy”,” nghĩ”). Chúng “tôi” không bao giờ đứng yên mà “suy nghĩ”, “cảm nhận”, nó đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: nhận thức xã hội và nhận thức bản thân. Do đó, nó luôn tồn tại và rất phức tạp. Kể chuyện và suy ngẫm, kể chuyện và tự nhận thức, kể chuyện và độc thoại là những biểu hiện riêng của văn kể chuyện.
Khi nói đến kể chuyện ở ngôi thứ nhất, ngoài ưu điểm, chúng ta thường nói đến hạn chế của nó: dễ gây cảm giác đơn điệu, nhàm chán ở người đọc, bởi khi trần thuật, tác phẩm thường dừng lại ở góc nhìn của một nhân vật, tạo nên cái nhìn ít chiều hấp dẫn. Có thể nói, phong cách đa tầng nhấn mạnh vào thế giới nội tâm của nhân vật, nhân vật có tiếng nói khách quan khi nói về người khác, đánh thức những suy nghĩ, tâm trạng chủ quan của người kể. Các tác phẩm nhìn chung mang giọng điệu đa âm với những cặp đặc điểm đối nghịch: sắc lạnh – tình cảm, tỉnh táo nghiêm nhặt – chan chứa trữ tình. Vì vậy, chúng có khả năng tác động đến cả tâm tư, tình cảm của người đọc, đồng thời khơi gợi nhiều tình cảm, suy nghĩ trong họ.
4.2. Tường thuật bằng ngôi thứ ba:
Người kể chuyện thứ ba: Người kể chuyện ẩn và gọi các nhân vật bằng tên của họ. Cách kể này giúp người kể có thể kể một cách linh hoạt, tự do về những gì xảy ra với nhân vật.
Ví dụ, trong tác phẩm Làng của Kim Lân: Chọn ngôi kể thứ ba để giúp nhân vật ông Hai đánh giá sự việc một cách khách quan, tự nhiên. Tình yêu của ông Hai đối với thị trấn và lòng yêu nước của ông đều được đánh giá một cách khách quan chứ không hềchủ quan theo người kể.
5. Ví dụ về ngôi kể:
Vua và đình thần chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé nhờ cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả.
Trích dẫn “Em bé thông minh”.
Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. Chẳng bao lâu, tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng. Đôi càng tôi mẫm bóng. Những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dân và nhọn hoắt.
Trích dẫn Tô Hoài -“Dế Mèn phiêu lưu ký”.
6. Đoạn văn hay về ngôi kể:
Làng – Kim Lân
Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc con bé lớn ông Hai thu nhặt những que củi lập lòe từ chiếc nón rách của ông dưới bếp, còn bà Hai ngồi thẫn thờ trước đĩa đèn dầu lạc, vừa đếm cua vừa lẩm nhẩm đếm tiền, bún tàu, tiền chuối, tiền khoai… rồi ông Hai đứng dậy đi đến bên bác Thu nói chuyện. Không hiểu sao cứ đến lúc ấy ông Hai lại thấy buồn. Nửa đêm nằm nghe tiếng súng nổ và nhất là tiếng càu nhàu của bà vợ đếm tiền tự nhiên ông nghĩ sao mà não nề. Và ông không muốn nghĩ như thế chút nào. Ông vốn là một công nhân bình thường, ở quê ông phải làm việc cả ngày, không có nhiều thời gian để tay chân nghỉ ngơi. Không cày bừa, không nhổ cỏ, không gánh phân tưới nước, cũng phải tự mày mò làm: đan sọt, đan hoặc sửa chuồng gà, cào tấm. Từ ngày sơ tán về đây, hai cha con ngồi ăn cơm cả ngày, đêm lại nghe tiếng thì thào tính toán, ruột nóng như lửa đốt. Ông phải đi chơi cho vui. Lần nào cũng vậy, như thường lệ, vừa thò đầu qua mái tranh cạnh phòng bác Thu, ông cụ hỏi ngay: “Chú ơi, hôm nay chú thế nào?”. Không đợi câu trả lời, ông lão nói luôn:
‐ Này Đácgiăngliơ nó lại về Pháp đấy nhé. Hừ, chơi vào! Còn là đi đi về về!
Hoặc:
Báo Cứu Quốc hôm nay nghe tin mừng quá. Bác Hồ trả lời các phóng viên nước ngoài khắp nơi. Cứng nhưng rất mềm. Người nói rằng dân tộc ta chỉ mong muốn độc lập và thống nhất, nếu không thì dân tộc ta sẽ chiến đấu đến cùng. Thật đấy, chuyến này không được Độc lập thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục. Mà có khi nào mình lại không Thống nhất, Độc lập được hở bác? Rồi ông nói đến mấy chuyện tản cư, mấy chuyện Tây khủng bố, truyện Việt gian, chuyện thổ phỉ… những câu chuyện mà ông lượm được hồi trưa, ở ngoài điếm. Cả chuyện chính trị, quân sự nữa. Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia. Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế khác. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu cả. Ông lão kéo dài một bên ria mép ra, tủm tỉm cười.
Tôi cũng chỉ là học lỏm cả thôi đấy bác ạ… Dù gì tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà… Và cuối cùng, khi những câu chuyện tin tức hàng ngày đã nhạt rồi, thì ông lại hướng đến chuyện cái làng của ông. Ông kể chuyện về cái làng ấy một cách vô cùng say mê và náo nức một cách lạ thường. Đôi mắt ông sáng ngời hẳn lên, cái mặt biến chuyển vui mừng. Ông phẩn khởi khoe rằng làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền rất sáng sủa rộng rãi, thậm chí là nhất cả vùng, chòi phát thanh của làng ông thì cao bằng ngọn tre, chiều nào loa cũng phát thanh mà cả làng đều nghe thấy. Ông còn khoe rằng làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như đô thị vậy.
Đường vào làng được lát đá xanh, mưa gió bùn đất không bám gót khi đi từ làng này sang làng khác. Ngày mồng mười tháng năm, rơm được phơi khô, gạo ngon, không lẫn hạt sạn. Ông Hai vẫn tiếp tục trình làng như trước. Thời Pháp thuộc, mỗi khi đi xa trình làng, ông chỉ trình thu nhập của quan cai làng. Ông có vẻ rất tự hào về làng vì đã nhận được sự quan tâm như vậy. Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi. Có lăm lắm là của. Vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy. Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu Hà Đông nhiều cơ mà!” Khi ở tỉnh Nam, mẹ và gia đình có khách đến chơi, ông nhất định phải đưa ra ngoài để xem cái lăng ấy.