Ngô Quyền là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận chiến Bạch Đằng năm 938, giành thắng lợi và kết thúc 1.000 năm Bắc thuộc của Việt Nam, mở ra thời kỳ kỷ nguyên độc lập cho dân tộc.
1. Tóm tắt tiểu sử Ngô Quyền – Thân thế của Ngô Quyền:
Ngô Quyền là ai? Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (năm 897) ở ấp Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội. Cha là Ngô Mân làm chức châu mục Đường Lâm, còn mẹ ông là bà họ Phạm. Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, “có trí dũng”. Sinh ra trong thời đất nước bị đô hộ, được cha dạy bảo từ tấm bé và truyền thống yêu nước của “mảnh đất hai vua” hun đúc, ngay từ nhỏ Ngô Quyền đã tỏ ra là con người khẳng khái, có chí lớn. Khi trưởng thành, Ngô Quyền được đánh giá là cường tráng, khôi ngô, người con Đường Lâm còn chăm rèn luyện võ nghệ để chờ dịp vùng lên đánh đuổi quân đô hộ. Mô tả Đức Ngô Vương thời trẻ, sử cũ có viết “vẻ người khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có chí dũng, sức có thể nhấc vạc dơ cao”.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: “Khi Ngô Quyền vừa mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, dung mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc bằng đồng.”
Ngô Quyền theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán chiếm thành Đại La năm 931. Khi Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, xưng là Tiết độ sứ, giao Ngô Quyền cai quản vùng Châu Ái (Thanh Hóa ngày nay).
Ngô Quyền đem hết tài năng, nhiệt huyết mang lại cuộc sống no ấm cho nhân dân trong vùng. Mến phục tài đức của Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ gả con gái yêu là Dương Như Ngọc cho người.
Lúc thiếu thời, Ngô Quyền sống ở quê với cha mẹ. Với sự giáo dưỡng của cha, ông đã sớm hiểu biết về võ nghệ và sử dụng gươm giáo cũng như những điều bí mật trong binh pháp. Lớn lên, trong lúc đất nước vừa giành được quyền tự chủ bắt đầu từ cha con họ Khúc, Ngô Quyền đứng ra tập hợp lực lượng và dần dần trở thành hào trưởng có thế lực ở Đường Lâm, được nhân dân kính phục.
Ngô Quyền chỉ có duy nhất một người vợ và có 04 người con trai:
– Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập: Là con trai trưởng của Ngô Quyền, được phỏng đoán sinh ra vào khoảng thập niên thứ hai của thế kỉ 10. Tiền Ngô Vương truyền ngôi cho Ngô Xương Ngập nhưng bị Dương Tam Kha cướp ngôi, Xương Ngập phải bỏ trốn. Năm 950, Dương Tam Kha bị lật đổ, ông được em là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn đón về, hai anh em cùng làm vua. Năm 954 ông mất.
– Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn: Là con trai thứ hai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Ông đã làm đảo chính, phế truất Dương Bình Vương, trùng hưng lại cơ nghiệp nhà Ngô. Trị vì cùng với anh là Thiên Sách Vương từ năm 950 đến năm 954, sau đó ông một mình trị nước từ năm 955 đến năm 965 thì mất. Nhà Ngô sụp đổ.
– Ngô Nam Hưng: Là con trai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Không được sử sách đề cập gì thêm.
– Ngô Càn Hưng: Là con trai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Không được sử sách đề cập gì thêm.
2. Sự nghiệp của Ngô Quyền:
Sử có ghi lại, tháng 3 mùa xuân năm 937, Dương Đình Nghệ bấy giờ là tiết độ sứ Giao Châu, bị một nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết hại để đoạt chức. Hành động phản trắc của Kiều Công Tiễn tạo ra một làn sóng căm giận, sục sôi trong dân chúng và vấp phải sự phản đối kịch liệt của các tướng sĩ vì soán ngôi bất minh. Hoảng sợ trước viễn cảnh đen tối, phế tướng họ Kiều hết sai lầm nay sang sai lầm khác, hắn cho quân sang cầu cứu nhà Nam Hán. Hành động “cõng rắn cắn gà nhà” này đã châm ngòi cho quân Nam Hán lăm le xâm phạm nước ta. Ngô Quyền đang trấn giữ Châu Ái phẫn nộ đem quân ra Bắc trị tội Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn hèn hạ cầu viện vua Nam Hán giúp đỡ. Nhà Hán có con là Vạn Vương Hoằng Thao, đưa quân sang xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, đem quân giết tên phản bội là Kiêu Công Tiễn và đón đánh quân Nam Hán. Thấy đây là cơ hội xâm lược nước ta, vua Nam Hán sai con trai là Lưu Hoằng Thao đem thủy quân sang xâm lược nước ta. Nền độc lập của dân tộc vừa mới giành được bị đe dọa nghiêm trọng.
Trước tình thế đó, mùa đông năm 938, Ngô Quyền đem quân vượt đèo Ba Dọi, tấn công thành Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn. Dự đoán quân giặc sẽ tiến công vào nước ta theo cửa sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đưa ra một kế hoạch tài tình, lợi dụng quy luật thủy triều để đánh giặc.
Để đánh thắng quân Nam Hán, lợi dụng thủy triều lên xuống ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt, cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Khi chiến thuyền của giặc hùng hổ tiến vào sông Bạch Đằng, quân ta nhử cho giặc vượt qua trận địa cọc. Chờ khi thủy triều xuống, Ngô Quyền trực tiếp chỉ huy quân từ ba phía đánh ập vào các thuyền địch. Quân giặc bị tấn công bất ngờ định quay đầu chạy ra biển nhưng không kịp, thủy triều rút đã làm các cọc nhọn nhô đầu đâm vào thuyền địch. Cửa sông Bạch Đằng trở thành mồ chôn quân xâm lược. Tướng giặc Hoằng Thao tử nạn. Vua Nam Hán sợ hãi rút quân khỏi biên giới nước ta và từ bỏ giấc mộng xâm lăng.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra trang sử chói lọi của dân tộc, vĩnh viễn chấm dứt ách đô hộ của phong kiến phương Bắc. Đất nước giành được độc lập, tự chủ. Sau chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền lên ngôi vua, đóng đô ở Cổ Loa (Hà Nội), mở ra một kỷ nguyên mới dựng nền độc lập tự chủ, tức là đặt nền móng cho một quốc gia độc lập, Ngô Quyền làm vua từ năm 939 đến 944 thì mất. Mùa xuân năn Kỷ Hợi (939). Ngô Quyền bãi bỏ chức Tiết độ sứ tự xưng vương lấy hiệu là Tiền Ngô Vương, xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ, đóng đô ở Cổ Loa nay thuộc huyện Đông Anh – Hà Nội. Chấm dứt trên 1000 năm nước ta bị đô hộ, mở đầu cho thời kỳ phục hưng đất nước. Năm Giáp Thìn (944) ông lâm bệnh rồi mất, làm vua được 6 năm hưởng thọ 47 tuổi.
Ngô Quyền không để lại một thơ văn nào hoàn chỉnh, nhưng sử sách còn truyền tụng nhiều giai thoại, huyền sử tốt đẹp của ông. Ngô Quyền được xem là người đã mở ra một kỉ nguyên tự chủ của dân tộc ta với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử.
3. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938:
Ngay sau khi trừ khử được nội phản, Ngô Quyền vào thành tụ họp các tướng tá và bàn kế. Với tài năng thao lược hơn người, người hùng xứ Đường Lâm nhận định : “ Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được” Nhưng ông cũng thừa nhận quân địch có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng trước thì chuyện được thua cũng chưa thể biết được.
Biết trước đước mưu đồ của nhà Hán là “Xuất binh theo hướng Bạch Đằng tấn công” (Tân Ngũ Đại sử), Trước thế giặc đông, hống hách và được trang bị đầy đủ về phương tiện, là người văn võ toàn tài, ông cũng nắm rõ được quy luật lên xuống của sông Bạch Đằng. Sử cũ có chép về dòng sông này còn gọi là sông Rừng, Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến”. Đã thế, hạ lưu sông thấp, độ dốc không cao, do vậy ảnh hưởng của thủy triều cực kỳ lớn. Lòng sông đã rộng lại sâu, nước thời điểm thủy triều rút có thể xuống đến 30 cm mỗi giờ. Trong đó mực nước chênh lệch giữa lúc cao và lúc thấp có thể vươn cao đến 2,5 – 3 mét. Dựa trên địa thế này, Ngô Quyền cho rằng “Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hay hơn kế ấy cả”. Trước sự ủng hộ của nghĩa quân, ông cho người lên rừng đẵn những cây gỗ lim vót thành cọc và đầu bịt sắt, sau đó cho lên thuyền và đóng xuống lòng sông và dọc theo hai bờ sông Bạch Đằng để cản sức tiến công của địch. Nhà sử học Lê Văn Hưu đã nhận định “Ngô Quyền là người mưu cao, đánh cũng giỏi”. Khi nước triều lên, ông cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến và rút nhanh để dụ giặc vào bãi cọc. Thuyền của địch chủ yếu thuộc vào dạng lớn, khi nước sông Bạch Đằng xuống, thuyền dễ bị mắc kẹt, nghĩa quân ta sẽ tập trung lực lượng để làm một trận nhanh chóng, triệt để.
Nói rồi làm, vào một ngày cuối đông năm 938, hơn hai vạn tinh binh cầm đầu bởi Vạn Vương Hoằng Tháo ùn ùn tiến vào nước ta theo đường thủy lên sông Bạch Đằng. Quân ta cho thuyền nhỏ bơi ra lòng sông để nhử giặc và bãi cọc. Thuyền của đội quân Hoằng Tháo hăm hở đuổi theo vào bãi cọc ngầm mà không hề hay biết. Thủy triều đến, nước rút nhanh..những chiếc thuyền địch bị mắc kẹt, tiến không tiến, lùi không lùi được. Nhân cơ hội, nghĩa quân Việt đã mai phục hai bên đánh giáp lá cà. Một đội quân thủy mạnh đã được lên kế hoạch đi thuyền nhỏ để đánh trực diện. Kế sách có một không hai này làm đến đội quân hùng mạnh nhà Nam Hán rơi vào thế bí, cả hơn 20.000 quân bị tổn hại đến hơn một nửa, tướng cầm đầu là Hoằng Tháo cũng bị tử trận và vùi xác trong sóng Bạch Đằng Giang. Nhuệ khí của nghĩa quân được lãnh đạo bởi Ngô Quyền mạnh tới mức, quân địch đang đóng sát biên giới cũng không dám tiếp ứng. Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm, chỉ còn cách khóc thương con và cố gắng thu nhặt tàn quân trở về nước. Bất ngờ đến kinh hoàng và không thể chấp nhận được thất bại, Vua Nam Hán đã đổ toàn bộ tội lỗi này cho trước tước tá lang Hầu Dung với tội danh “Không làm cho tinh thần quân phấn chấn”. Dù đã chết, vị tướng này vẫn bị đối xử một cách tàn bạo tới mức, bị quật mộ, phơi thây để hả giận không thương tiếc. Cuối năm 938, trận sông Bạch Đằng chống giặc ngoại xâm đã dành được chiến thắng oanh liệt.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của ông vua đầu tiên trong lịch sử Việt xóa bỏ ách đô hộ hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc, trong Đại Việt sử thi của Hồ Đắc Duy có ghi chép rằng: “Một chiến thắng ngàn năm để lại Sông Bạch Đằng mãi mãi thiên thu Đường Lâm xây dựng cơ đồ Ngô Vương lưu dấu để cho đến giờ”. Sau đại thắng Bạch Đằng lừng danh kim cổ, đập tan hơn 2 vạn tinh binh của quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương và mở ra một thời trung hưng rực rỡ cho dân tộc. Trong sử sách, các chuyên gia sử học đã ưu ái gọi ông là “vua của các vị vua”. Dù quá khứ đã lùi xa trên 1000 năm, song trận Bạch Đằng lưu danh sử sách và tiếng tăm của vị vua tài ba, sách lược vẫn là đồng thời là biểu tượng sáng ngời cho ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong suốt dòng lịch sử và là động lực quan trọng để khơi dậy đánh thức tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc để xây dựng đất nước hưng thịnh thời kỳ hội nhập.
4. Cai trị đất nước:
Ngô Quyền lên ngôi ngày 10 tháng 1 năm Kỷ Hợi (tức ngày 1 tháng 2 năm 939). Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng là Ngô Vương, xây dựng nhà nước tự chủ, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi Ngô Quyền là Tiền Ngô Vương.
Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư chép rằng: Mùa xuân, vua bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục. Sách Việt sử tiêu án chép: Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất.
Về kinh đô:
Sau khi lên ngôi, Ngô Quyền không đóng đô ở trị sở cũ của nhà Đường như họ Khúc hay Dương Đình Nghệ nữa mà chuyển kinh đô lên Cổ Loa thuộc Phong Châu (thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên cũ). Lý giải cho việc Ngô Quyền không chọn Đại La sầm uất và có truyền thống nhiều thế kỷ là trung tâm chính trị trước đó, các sử gia cho rằng có 2 nguyên nhân: tâm lý tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước từ kinh nghiệm cũ để lại.
Phần vì ý thức dân tộc trỗi dậy, tiếp nối quốc thống xưa của nước Âu Lạc xưa, quay về với kinh đô cũ thời Âu Lạc, biểu hiện ý chí đoạn tuyệt với Đại La do phương Bắc khai lập.
Thêm nữa, Đại La trong nhiều năm là trung tâm cai trị của các triều đình Trung Quốc đô hộ Việt Nam, là trung tâm thương mại sầm uất nhiều đời chủ yếu của các thương nhân người Hoa nắm giữ. Đại La do đó là nơi tụ tập nhiều người phương Bắc, từ các quan lại cai trị nhiều đời, các nhân sĩ từ phương Bắc sang tránh loạn và các thương nhân. Đây là đô thị mang nhiều dấu vết cả về tự nhiên và xã hội của phương Bắc, và thế lực của họ ở Đại La không phải nhỏ. Do đó lực lượng này dễ thực hiện việc tiếp tay làm nội ứng khi quân phương Bắc trở lại, điển hình là việc Khúc Thừa Mỹ nhanh chóng thất bại và bị Nam Hán bắt về Phiên Ngung. Rút kinh nghiệm từ thất bại của Khúc Thừa Mỹ, Ngô Quyền không chọn Đại La.
Về lãnh thổ:
Học giả Đào Duy Anh cho rằng các triều đại phong kiến đầu tiên cai trị 8 châu: Giao, Lục, Phong, Trường, Ái, Diễn, Hoan, Phúc Lộc nằm trên đất Giao Châu cũ. Ngô Quyền chỉ có quyền lực ở các châu miền trung du và miền đồng bằng Bắc bộ, vùng Thanh Nghệ, còn miền thượng du là các châu ky my (châu tự trị, chỉ phải cống nạp), của nhà Đường trước kia, do các tù trưởng nắm giữ mà độc lập.
Những người thân cận, các tướng tá cùng các hào trưởng địa phương quy phục đã được nhà Ngô phong tước, cấp đất, như Phạm Lệnh Công ở Trà Hương (Nam Sách, Hải Dương), Lê Lương ở Ái châu, Đinh Công Trứ (cha của Đinh Bộ Lĩnh) ở Hoan Châu.
5. Di tích thờ phụng Ngô Quyền:
Hiện nay ở làng Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) có đền và lăng thờ Ngô Quyền. Ngoài ra còn có gần 50 nơi khác có liên quan thờ Ngô Quyền và các tướng lĩnh thuộc triều đại Ngô Vương
Đền thờ và lăng Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây là một địa chỉ du lịch và tâm linh nổi tiếng của làng cổ này. Đền được xây dựng bằng gạch, lợp ngói mũi hài, quay về hướng đông, có tường bao quanh. Qua tam quan, hai bên có tả mạc, hữu mạc, mỗi dãy nhà gồm năm gian nhỏ. Đại bái có hoành phi khắc bốn chữ “Tiền Vương bất vọng”. Ngày nay tòa đại bái được dùng làm phòng trưng bày về thân thế, sự nghiệp của Ngô Quyền và nhà triển lãm chiến thắng Bạch Đằng.
Trên đây là những thông tin thú vị về Ngô Quyền – vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam, người đặt nền móng cho việc chấm dứt ách đô hộ 1000 năm Bắc thuộc, mở ra kỳ nguyên độc lập cho dân tộc. Dù trị vì không lâu, nhưng công lao hiển hách của ông luôn được sử sách ghi tạc. Hi vọng bài viết giúp các bạn có thêm thông tin về vị vua đáng kính này.