60 hoa giáp là 60 năm của 6 con giáp (Giáp Tí, Tuất, Thân, Ngọ, Thìn, Dần) nối tiếp nhau diễn chuyển bắt đầu từ Giáp Tí đến Quí Hợi. Mỗi năm mang một tên có 2 chữ. Chữ trên thuộc hàng Can, chữ dưới thuộc hàng Chi. Hai chữ hợp lại gọi là nạp âm có một hành chung khác hẳn, mặc dầu Can và Chi mỗi chữ có một hành riêng biệt.
Can có 10 chữ phân chia rành rẽ âm dương và đầy đủ ngũ hành đều nhau:
Sơ khai Mộc : Giáp (dương) Ất (âm)
Hoả : Bính – Đinh – Mộc sinh Hoả
Thổ : Mậu – Kỷ – Hoả sinh thổ
Kim : Canh – Tân – Thổ sinh Kim
Thuỷ : Nhâm – Quí – Kim sinh Thuỷ
Trái lại hàng Chi có 12 chữ cũng đầy đủ âm dương ngũ hành:
Thuỷ : Tí (dương) Hợi (âm)
Mộc : Dần – Mão –
Hoả : Ngọ – Tỵ –
Kim : Thân – Dậu –
Thổ : Thìn Tuất – Sửu Mù i-
Cái lý dư 2 hành thổ có ý tứ trong vũ trụ bất cứ hành gì dầu là Kim hay Mộc, Thuỷ hay Hoả đều là ở trong đất mà ra. Bốn hành này luôn luôn sinh khắc để trường tồn, bởi thế mới có liên minh tam hợp cục là thế đứng của tứ chính (Tí Ngọ Mão Dậu) để bồi đắp cho nhau củng cố ưu thế.
Vậy 12 Chi có 4 Chính 4 Sinh 4 Mộ lập thành 4 tam hợp cục là 4 khối có tôn chỉ riêng:
SINH CHÍNH MỘ HÀNH
Thân Tí Thìn Thuỷ
Dần Ngọ Tuất Hoả
Tỵ Dậu Sửu Kim
Hợi Mão Mùi Mộc
Một vòng của 10 can tuần tự ghép vào 12 Chi, mỗi năm thay đổi đáng lý là 10 x12 = 120, nhưng vì luật âm dương nên chỉ có phân nửa nghĩa là dương Can chỉ đứng với dương Chi, âm Can phải ghép với âm Chi mới đúng cách.
Đã viết cái nguyên do của 10 Can và 12 Chi, mỗi năm mang một cái tên có 2 chữ kể từ Giáp Tí đến Ất Sửu lần hồi cuối cùng là Quí Hợi. Mỗi tên có một tôn chỉ riêng là hành chung, nhưng cái hành riêng của mỗi chữ Can hay Chi vẫn phải nhìn nhận là quan trọng.
Hai chữ Can và Chi đứng với nhau không khác gì tình cảnh của một gia đình có hoà hợp mới nên sự nghiệp, còn xung khắc nhau làm sao có hưng vượng.
Như 2 tuổi Canh Thân và Canh Dần cùng là Mộc mệnh, thật ra cảnh đề huề của mỗi tuổi một khác. Canh là Kim, Thân là Kim, cũng như cây có gốc (Can) ngọn (Chi) đều nhau hẳn là có 1 căn bản vững chắc, dẫu không hơn người cũng không hề kém ai. Còn Canh Dần thì Can Canh (Kim) khắc Chi Dần (Mộc). Cây mà gốc không tải bồi cho ngọn làm sao mà sinh nở tốt đẹp cho nổi, khác gì gia đình trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Hai tuổi Giáp Tí và Giáp Ngọ thấy cả 2 tuổi cùng tương sinh gốc ngọn, nhưng Giáp Ngọ khác biệt bỏ xa Giáp Tí rất nhiều. Giáp Ngọ có Can Giáp (Mộc) sinh cho Chi Ngọ (Hoả) nghĩa là gốc nuôi ngọn là thuận cảnh. Trái lại Giáp Tí thì Can Giáp (Mộc ) được Chi Tí (Thuỷ) sinh lại tức là ngọn nuôi gốc tuy cũng là cảnh tượng sinh nhưng ngược chiều cho biết ngay Giáp Tí không có khả năng vững chắc mà sự đề huề chỉ là may mà có. Huống chi Giáp Ngọ còn tiềm tàng căn bản phồn thịnh là tam hợp Lộc Tồn của tuổi Giáp (Lộc tồn ở Dần) Thiên Lộc dành riêng cho người Dần Ngọ Tuất. Còn Giáp Tí đứng ngõ ngoài, muốn hưởng Lộc Tồn phải là Canh Tí (Canh Kim sinh Tí Thuỷ và Thân Tí Thìn là tam hợp hưởng Lộc Tồn tuổi Canh ở Thân).
Hai tuổi Giáp Thìn và Giáp Tuất là 2 tuổi đều hàng Can Giáp (Mộc) khắc Chi Thìn Tuất (Thổ). Hai tuổi này cũng cách biệt nhau cả một dặm đường: Giáp Tuất tuy Can khắc Chi, cuộc đời thấy nhiều trở lực, nhưng còn được dự phần tham dự chia sẻ Thiên Lộc tuổi Giáp. Giáp Thìn kể như là khách đi đường không liên quan gì đến, lại còn bị cảnh nghèo túng là Lộc Tồn thường trực có Tuần đóng kín, chỉ còn trông cậy vào bộ sao Sát Phá Tham nếu được thủ mệnh sống theo Hoá Lộc, tay làm hàm nhai. Trường hợp tuổi Giáp Thìn, mệnh đóng ở vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi dầu được bộ Sát Phá Tham là nòng cốt cũng chỉ là kiếp nhân sinh được tạo hoá nặn ra để trả nợ đời, không mong gì sự nâng đỡ vì vị trí của Sát Phá Tham ở Hợi Mão Mùi, trường hợp nào cũng là đen tối, cố công xây đắp mấy cũng chỉ là hữu công vô lao (vị trí Thiếu âm Long đức Trực phù của tuổi Giáp Thìn).
Tóm lại tuổi của mỗi cá nhân có thể sắp xếp theo thứ tự tốt xấu có 5 bậc thang như sau:
1/ CAN sinh CHI: Phúc đức quá lớn tiềm tàng một căn bản hơn người
2/ CAN CHI đều nhau : có năng lực khá đầy đủ vững chắc
3/ CHI sinh CAN: đời gặp may nhiều hơn thực lực
4/ CAN khắc CHI: đời gặp nhiều trở lực
5/ CHI khắc CAN: nghịch cảnh đầy rẫy chua cay
Trương Lương Hàn Tín là 2 người bạn đồng Triều phò trợ Hán Cao Tổ Lưu Bang lên nghiệp đế. Cả 2 người cùng tuổi Giáp:
Trương Lương tuổi Giáp Ngọ sinh ngày 6 tháng 5 giờ Thìn
Hàn Tín tuổi Giáp Tuất sinh ngày 5 tháng 11 giờ Ngọ
Cả 2 người mệnh cùng đóng tại vị trí tam hợp Thái Tuế là người hành động nêu cao chính nghĩa, cùng được bộ Tử Phủ Sát Phá Tham làm nòng cốt (đắc Khoa Quyền Lộc) cùng được hưởng Thiên Lộc là 3 tuổi Dần Ngọ Tuất. Nếu đem so tài thao lược Hàn Tín còn ở trên Trương Lương môt hạng nên được Hán Cao Tổ phải lập đàn phong tướng tự tay nâng ấn kiếm nguyên nhung trao cho Hàn Tín trước muôn thủ hạ cho có danh chánh ngôn thuận. Vậy mà cuộc đời Hàn Tín phải hứng chịu biết bao nhiêu thua thiệt kém Trương Lương.
Từ một kẻ thứ dân nương nhờ cơm Siếu Mẫu, có lần nhẫn nhục luồn trôn thất phu ở kẻ chợ, đành rằng đời vĩ nhân phải trải qua nhiều cơn bĩ cực chờ Thiên Thời mới rõ vàng thau.
Trương Lương thuộc dòng Khanh Sĩ gặp buổi vong quốc cũng phải lang thang nay đây mai đó tìm mặt gửi vàng, đến đâu cũng được trọng đãi.
Phân tách những nét chính của hai lá số, trước nhất Trương Lương hơn Hàn Tín ở cái gốc tuổi Giáp Ngọ được Can sinh Chi, Hàn Tín bị Can khắc Chi (Giáp Tuất). Trương Lương mệnh ở vị trí Quan Phù có ý tứ tính toán kỹ càng dẫn dắt đời sống.
Hàn Tín ở vị trí Bạch Hổ mỗi khi làm việc thì bất cứ giá nào làm cho kỳ đắc ý (còn tham vọng). Phúc đức của Trương Lương có Tham lang ở Thìn ngộ Tuần hoà hợp đủ nghĩa với vị trí Mệnh, Quan Phù có thể từ bỏ mọi tham vọng để nhàn du sơn thuỷ. Hàn Tín Phúc Thất Sát triều đẩu bị cả Tuần lẫn Triệt. Phải chăng vì thế cuộc đời đi đến chỗ bị thương.
Ba tuổi Giáp được hưởng Lộc tồn thì Giáp Ngọ đứng đầu vì Giáp sinh Ngọ, thứ đến Giáp Dần (Giáp và Dần đồng hành) đứng sau chót mới đến Giáp Tuất vì Giáp khắc Tuất.Trương Lương tuổi Giáp Ngọ đương nhiên được hưởng nhiều hành phúc hơn Hàn Tín tuổi Giáp Tuất.
Vậy tuổi mỗi cá nhân không phải là đương nhiên Can Chi tuần tự sắp xếp không có nghĩa lý, thật ra tiềm tàng một ý tứ sâu sắc như diễn tả hình bóng cả một cuộc đời.
Can là gốc là Phúc đức, Chi là ngọn là Thân thế. Hạn hành hên xui hàng năm xuống đến hàng tháng hàng ngày do Can của năm tháng ngày chế hoá với Can của Mệnh chiếm phần ưu tiên quan trọng điều khiển.
(Tử vi nghiệm lý toàn thư – tác giả Thiên Lương)